Harry Potters Fans Forum CHUYỂN FORUM TỚI HTTP://HPFF.BY.MD/FORUM |
| | Tutorial for designer | |
|
+4dorothydevere Crystal hermione_malfoy SaSun 8 posters | Tác giả | Thông điệp |
---|
SaSun Hấp-phờ-lờ-bấp - Nơi độ phởn thăng hoa
Tổng số bài gửi : 90 Age : 31 Đến từ : ASG Registration date : 18/01/2008
| Tiêu đề: Tutorial for designer Sun Feb 17, 2008 9:02 pm | |
| .:Tutorial for designer:.
Đây là nơi chúng ta, những designer trao đổi với nhau những kinh nghiệm về design và giải đáp những vướng mắc trong việc design. Tại đây, các bạn cũng có thể post những bài hướng dẫn design do chính mình viết hay dịch hay lấy từ một nguồn nào đó. Tuỳ theo nội dung bài viết của bạn mà sẽ cộng điểm thích hợp! *Lưu ý: - Những bài viết nào không phải là do chính mình viết thì các bạn nhớ vui lòng ghi nguồn của nó nhé! - Có thể post những câu hỏi về design tại đây nhưng những câu hỏi về box Designer Club thì vui lòng vào đâyWELCOME! | |
| | | hermione_malfoy Sun is for day, Moon is for night, You is for me
Tổng số bài gửi : 177 Age : 29 Đến từ : you_know_where Registration date : 05/02/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Mon Mar 03, 2008 11:48 am | |
| Chào bác Sei! Cháu là đứa từ hành tinh khác đến nên đang ngu ngơ như bò đội nón, chả hiểu mô tê gì cả (vừa phải đi hỏi 7 coi banner là cái khỉ gì!). Thế nên bác đừng trách sao cháu hỏi những câu quá cơ bản nha! Và sau đây là câu hỏi của cháu: "design" hiểu theo đúng nghĩa gốc của tử đó, và theo mọi người hiểu ở đây là gì?(cái này cháu chỉ hiểu mơ hồ, ko rõ ràng nên cháu hỏi lại). Để design được thì phải có phần mềm gì? sử dụng phần mềm đó như thế nào? Cháu hỏi thế thôi, bác trả lời đi rồi cháu hỏi tiếp! (mà bác có nhớ cháu là đứa nào không, hay lại quên rồi?) | |
| | | Crystal Playback the Time
Tổng số bài gửi : 123 Age : 33 Đến từ : TopSecret Registration date : 05/02/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Mon Mar 03, 2008 8:27 pm | |
| - Trích dẫn :
- Chào bác Sei! Cháu là đứa từ hành tinh khác đến nên đang ngu ngơ như bò
đội nón, chả hiểu mô tê gì cả (vừa phải đi hỏi 7 coi banner là cái khỉ gì!). Thế nên bác đừng trách sao cháu hỏi những câu quá cơ bản nha! Và sau đây là câu hỏi của cháu: "design" hiểu theo đúng nghĩa gốc của tử đó, và theo mọi người hiểu ở đây là gì?(cái này cháu chỉ hiểu mơ hồ, ko rõ ràng nên cháu hỏi lại). Để design được thì phải có phần mềm gì? sử dụng phần mềm đó như thế nào? Cháu hỏi thế thôi, bác trả lời đi rồi cháu hỏi tiếp! (mà bác có nhớ cháu là đứa nào không, hay lại quên rồi?) Chẳng dám nói có nhìu kinh nghiệm trong cái thể loại này nhưng cũng xin trả lời vài ý sau: - Design theo đúng cái nghĩa gốc của nó trong tiếng Anh có nghĩa là Thiết Kế. Ở đây thì có nhiều kiều nhưng đối với chủ đề đang nói là về thiết kế hình ảnh,quảng cáo, avatar, chữ kí,... - Muốn design thì có thể sử dụng nhiều phần mềm như coreldraw, photoshop, mask,... nhưng cơ bản chủ yếu ta xài Photoshop. | |
| | | dorothydevere D.E.S.I.G.N.E.R
Tổng số bài gửi : 43 Age : 31 Đến từ : HPVN Registration date : 20/03/2008
| | | | Sheena Giáo sư - Lao công Hufflepuff - Thần Sáng
Tổng số bài gửi : 393 Age : 31 Đến từ : Rừng AmAz0nE Registration date : 26/02/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun May 11, 2008 7:39 am | |
| Cho tớ hỏi cái này ^^ Tớ vừa cài PTS vào máy tập tành des ^^ Thật sự là rất ngu khoản này ^^ Ai giải đáp , hay nói đúng hơn là giải thích mấy thuật ngữ trong PTS với ^^ Ví dụ như là brush , texture ,...^^ làm như thế nào để chèn nó vào hình ^^ Rất cảm ơn ^^ | |
| | | dorothydevere D.E.S.I.G.N.E.R
Tổng số bài gửi : 43 Age : 31 Đến từ : HPVN Registration date : 20/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun May 11, 2008 8:38 am | |
| - Brush Tool: nói nôm na là 1 công cụ để vẽ hình ^^. Phím tắt là phím B. Khi sử dụng công cụ này, bạn có thể tạo ra hình hoa lá, chữ... từ những brush có sẵn hoặc download trên mạng. Brush là file dạng .arb. Để sử dụng brush đownloa, ấn F5 để hiện bảng brush, rồi chọn load brush. - Texture: là 1 hình được dùng để blend màu. Những hình này cũng là file hình ảnh bình thường, thường có nhiều màu sắc ^^ VD: http://aethereality.net/textures/download/32/- Pattern: file dạng .pat . Dùng để tạo 1 background. VD: đây là 1 background tạo từ pattern: Để dùng nó, bạn tạo 1 layer mới hoặc dùng trên layer background luôn cũng được. Ấn Ctrl + A -> Edit -> Fill -> chỉnh thành Pattern. Cách load pattern tương tự load brush. - Stock: Hình gốc được sử dụng để design | |
| | | Sheena Giáo sư - Lao công Hufflepuff - Thần Sáng
Tổng số bài gửi : 393 Age : 31 Đến từ : Rừng AmAz0nE Registration date : 26/02/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun May 11, 2008 12:07 pm | |
| | |
| | | dorothydevere D.E.S.I.G.N.E.R
Tổng số bài gửi : 43 Age : 31 Đến từ : HPVN Registration date : 20/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun May 11, 2008 12:45 pm | |
| Công cụ dùng để cut hình là Lasso Tool, phím tắt L ^^. Thường thì nên dùng Poly... Lasso Tool cut sẽ sát mép hình hơn. Chỉ cần right click vào Lasso Tool trên thanh công cụ -> chọn P. LT (dòng thứ 2). Khi cắt thì ấn chuột sát mép hình. Sau khi cắt xong, đường cắt sẽ tự động chuyển sang dạng nét đứt. Right click -> La via copy/cut, nó sẽ tạo 1 layer mới chỉ chứa vùng vừa cắt. p/s: ss đúng là doro nhà Huff đấy dưng mà ss k phải vợ Hũ cà dzà đâu em :que:, còn cái sign thì... :"> | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Hướng dẫn Photoshop toàn tập Thu Jun 05, 2008 10:45 pm | |
| Tình cờ lò dò lên net học đồ hoạ thì thấy cái này. Thấy hay hay nên post vào cho mọi người cung xem, coi như là tài liệu tham khảo. Các bạn ma mới cũng có thể vào tham khảo, coi như là học free (giống tớ) -------------------------------------------------------------------------- Chương 2: Làm quen với môi trường làm việc của PTS ------------------------------------------ Nội dung của trang này thuộc bản quyền của © Bá tước Monte Cristo và bantayden.com. Những bài viết trong này có thể được in ra để dùng với mục đích cá nhân. Nếu bạn muốn copy hoặc dùng lại trong trang web của bạn làm ơn liên lạc với tôi hoặc ít nhất phải trích dẫn lại nguồn là: Bá tước Monte Cristo và bantayden.com
Bắt đầu bằng cách làm quen với 4 thành phần cơ bản trong môi trường làm việc của Photoshop đó là: Thanh menu, thanh trạng thái, hộp công cụ và các Palettes. Trong bài học đầu tiên chúng ta nói về thanh Menu
1. Thanh Menu
Thanh menu bao gồm 9 menu phụ: File, Edit, Image, Layer, Select, Filter, View, Window và Help. Bỏ ra vài phút để tự khám phá thanh menu, bạn sẽ nhận ra rằng có một số menu phụ theo sau bởi 2 dấu ngoặc đơn (...). Nó có nghĩa rằng đằng sau menu này được theo sau bởi một hộp thoại mà bạn có thể thêm vào những định dạng. Một số khác được theo sau bởi những mũi tên nhỏ, nó chỉ ra rằng một menu phụ với những lệnh liên quan. Khi bạn khám phá từng menu, hãy khám phá cả những menu phụ nữa. Bạn cũng có thể để ý thấy rằng rất nhiều lệnh được theo sau bởi những lệnh bàn phím. Sau này bạn sẽ nhận ra rằng những lệnh tắt này sẽ giúp bạn tiết kiệm rất nhiều thời gian. Khi bạn đọc xong cả 8 chương này bạn sẽ học được những lệnh tắt hữu dụng nhất.
. Thêm vào thanh menu, Photoshop thường có những dòng chữ chạy theo con trỏ trên những công cụ thông dụng nhất mỗi khi bạn đưa con trỏ trượt qua nó. Điều này để làm cho bạn rõ ràng hơn khi lựa chọn công cụ làm việc.
Một trong những menu ngữ cảnh tiện dụng nhất mà có thể truy cập bằng cách nháy chuột phải/ Ctrl + click vào thành tiêu đề của một tài liệu để có đường tắt đến lệnh nhân đôi (duplicate), hình ảnh, hộp thoại kích cỡ canvas, thông tin về tệp tin và định dạng trang. Nếu bạn đã biết cách mở một file ảnh, thì cứ tự nhiên thử đi. Nếu không thì chúng ta tiếp tục bài học sau.
2. Thanh Trạng Thái
Bây giờ bạn hãy nhìn vào thanh trạng thái ở tận cùng của màn hình hiển thị. Thanh trạng thái ít khi được ngừơi dùng lưu tâm tới, nhưng nó có thể là một công cụ quý giá. Bạn phải mở một tài liệu trước khi thanh trạng thái thể hiện thông tin, vậy mở đi thôi! Lệnh tắt để mở là Ctrl+o
ở bên tận cùng trái của thanh trạng thái bạn sẽ thấy độ phóng đại của tại liệu hiện hành. Bạn có thể click chuột vào đó và đánh vào đó một số bất kỳ để thay đổi độ phóng đại của tài liệu.
Để trả lại tại liệu về 100% độ phóng đại, nháy kép vào công cụ Zoom Tool trong hộp công cụ (Tool Box). Lệnh tắt của công cụ này là Ctrl+Alt+0
Ở bên phải của ô độ phóng đại, bạn sẽ thấy một ô thể hiện kích cỡ của tại liệu. Số bên trái thể hiện độ lớn khi chưa nén của file ảnh nếu tất cả các layer bị flatten. Số bên phải thể hiện độ lớn chưa nén của tại liệu bao gồm tất cả các layers và channels. Bạn nên lưu tâm rằng cả hai chỉ số này thường thì lớn hơn độ lớn thực sự của tài liệu khi được save lại.
Kế bên độ lớn của tại liệu có một mũi tên nhỏ dẫn tới một menu. Khi làm việc với Photoshop bạn sẽ luôn thấy một mũi tên tương tự như thế này, và nhớ rằng đằng sau nó có dấu một menu phụ. Trong trường hợp này menu phu cho phép bạn thay đổi những gì thể hiện ở thanh trạng thái. Thêm vào độ lớn của tại liệu, bạn có thể lựa chọn Scratch Sizes, Efficiency, Timing, hoặc Current Tool
Bên cạnh thanh trạng thái, bạn cũng có thể thấy những thông tin quan trọng về công cụ bạn đang dùng. Nếu bạn vẫn đang lựa chon Zoom Tool, thì thanh trạng thái của bạn sẽ hiện thị "Zoom in". Nếu bạn ở ngoài vùng soạn thảo của tại liệu hãy chuyển con trỏ vào vùng soạn thảo và bạn sẽ thấy thanh trạng thái hiện ra hướng dẫn cách sử dụng công cụ đó. Bây giờ hãy nhấn phím Alt xuống và trên thanh trạng thái sẽ hiện ra "Zoom Out" và con trỏ sẽ biến thành dấu trừ. Hãy thử với lệnh Ctrl cùng với Zoom Tool và quan sát câu hướng dẫn trên thanh công cụ. Hãy thử phối hợp những lệnh như là Ctrl - Shift, hoặc Ctrl-Alt và quan sát hướng dẫn trên thanh trạng thái.
Dưới đây là một số câu lệnh tắt của Zoom Tool
Ctrl-Alt-0/ = phóng to 100% Alt/ = Click để thu nhỏ Ctrl/ = Tạm thời chuyển sang Move Tool Nháy kép Hand Tool = Phóng to cho vừa với màn hình Ctrl-0/ = Phóng to để vừa với màn hình Ctrl-+/ = Zoom in Ctrl--/ = zoom out
|Quay về đầu trang|
3. Tool Box - Hộp công cụ
Khi bạn nhìn vào hộp công cụ, bạn sẽ thấy một vài nút có những mũi tên nhỏ ở bên góc phải. Nó có nghĩa rằng còn có những công cụ khác được dấu bên trong. Để lấy công cụ này click chuột giữ và kéo một menu sẽ hiện ra.
Khi bạn rê chuột qua những nút khác bạn sẽ thấy một dòng chữ hiện lên chỉ ra tên của công cụ đó và lệnh gõ tắt của nó. Tất cả những Marquee Tool có lệnh gõ tắt là M. Một cách đơn giản để hoán đổi những công cụ là dùng lệnh tắt cùng với phím Shift. Với công cụ Marquee, lệnh Shift-M sẽ hoán đổi từ Rectangular thành Elliptical Marquee Tool. Single marquee row marquee tool rất ít khi được dùng cho nên phải chọn bằng hộp thoại tool box. Một câu lệnh tắt khác để hoán đổi những công cụ ẩn là Alt/ Click vào nút trong Tool Box
Ở dưới hộp Tool Box là hộp Swap Color. Đây là hộp mà nền trước và nền sau được thể hiên. Cái mũi tên nhỏ ở bên góc phải cho phép bạn hoán đổi từ nền trước thành nền sau và ngược lại. Biểu tượng nhỏ màu trắng và đen ở bên trái của Swap Color cho phép bạn quay lại chế độ mạc định ban đầu của Photoshop là đen là nền trước và trằng là nền sau. Để thay đổi màu nền, đơn giản chỉ cần click vào một trong hai nền trước và nền sau và lựa chọn một màu mới trong menu chọn màu. Hãy thử chọn màu mới và quay lại mạc định ban đầu của Photoshop.
Biểu tượng này cho phép bạn thay đổi 2 lệnh Quick Mask và Selection Mode.
Biểu tượng này cho phép bạn thay đổi giao diện của môi trường làm việc. Hãy thử click chuột vào từng biểu tượng để biết tính năng của nó là gì. Lệnh tắt cho biểu tượng này là F. Bằng cách lập lại nhấn phím F sẽ thay đổi sang 3 trạng thái.
Sau đây là một số lệnh tắt để thay đổi giao diện của môi trường làm việc. Hãy thử thực hành luôn khi bạn đọc tới nó. Shift-F thay đổi sang Full Screen modes, dấu hoặc hiện thị Toolbox, thanh trạng thái và các Palettes bằng phím Tab. Chỉ dấu mỗi Palettes và để hiện thị Toolbox sử dụng tổ hợp phím Shift-Tab
Phần cuối cùng của Toolbox là di chuyển tài liệu sang ImageReady. Chúng ta không đề cập đến ImageReady trong phần Photoshop này, bạn có thể tìm thêm tài liệu ở ngoài.
Trước khi chuyển sang Palettes, tôi tóm tắt lại những lệnh tắt chúng ta đã học ở trên.
D = Định dạng lại nền trước thành đen và nền sau thành trắng.
X = Hoán đổi vị trí giữa nền trước và nền sau
F = Hoán đổi Screen Modes
Shift-F = Bật và tắt Menu bar trong Full Screen Mode
Tab = Bật và tắt toolbox, status bar, và palettes
Shift-Tab = Bật và tắt chỉ duy nhất Palettes.
|Quay về đầu trang|
4. Palette Để hiểu tốt hơn phần này bạn nên mởi một file ảnh bất kỳ cho tiện theo dõi.
Navigation Palette trong version 6.0 bao gồm Navigator, info và Option. Trong Version 7.0 chỉ có Navigator và Info. khi bạn khởi động Photoshop, tất cả các Palette được hiện ra dọc theo bên phải của màn hình trong nhóm Palettes. Nhóm thứ nhất bao gồm Navigator, info và option. Tiếp theo nó là Color Swatches, Brush Palettes. Ở dưới nữa là History và Action Palettes. Cuối cùng, là Layers, Channels và Paths Palettes.
Palettes có thể di chuyển được trong môi trường làm việc bằng cách nháy vào thanh tiêu đề (màu xanh) và kéo nó. Mỗi một nhóm Palette đều có một chức năng thu nhỏ và đóng lại ở trong thanh tiêu đề. Bạn hãy thử thu nhỏ các Palettes lại đi! nếu bạn nháy vào Palettes lần nữa sẽ lại mở nó ra. Riêng Color Palette thì không thể thu nhỏ hoàn toàn, bạn thử đi!
Color Palette Expanded
Color Palette Partially Collapsed
Color Palette Completely Collapsed
Đối với những Palette chỉ đóng được một phần, bạn có thể đóng nó hoàn toàn bằng cách giữ phím Alt và nhấn vào nút thu nhỏ. Bạn cũng có thể thu nhỏ cả nhóm bằng cách nháy kép vào bất kỳ một Palettes nào. Để hiển thị lại Palette đơn giản là click một lần vào thanh Palette nếu nó ở đằng sau của nhóm hoặc nháy đúp vào nếu nó ở đằng trước của nhóm. Palette cũng có thể thay đổi kích thước bằng cách rê con trỏ ở cạnh của nó khi con trỏ biến thành mũi tên hai đầu và kéo, hoặc bằng cách kéo ở góc của nó. Chỉ có Color, Options và Info là không thể thay đổi kích thước.
Khi bạn nháy vào nút đóng ở một nhóm Palette nó sẽ đóng tất cả những Palette trong nhóm đó. Để hiện thị lại Palette bị ẩn, bạn có thể chọn hoặc trong Window Menu hoặc hiện thị nó bằng lệnh tắt. Lệnh tắt như sau
F5 = Ẩn/ hiện Brushes Palette
F6 = Ẩn/ hiện Color Palette
F7 = Ẩn/ hiện Layers Palette
F8 = Ẩn/ hiện Info Palette
F9 = Ẩn/ hiện Actions Palette
Tab = Ẩn/ hiện Toolbar và tất cả Palettes
Shift-Tab = Ẩn/ hiện tất cả Palettes
Nếu bạn muốn trả lại mạc định ban đầu của photoshop thì vào Window Menu
source:Bá tước Monte Cristo bantayden.com | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Thu Jun 05, 2008 10:50 pm | |
| Chương 3: Làm việc với tài liệu ---------------------------------------- 1. Navigator Palette và Hand Tool Mở một file ảnh bất kỳ. Ở chính giưa Navigator Palette bạn thấy một hình nhỏ thể hiện file ảnh của bạn vừa mở ra. Nếu cả tấm hình của bạn nằm trong phần nhìn thấy được thì nó sẽ có một viên bao quanh như hình. Bạn có thể thay đổi màu viền bằng cách chọn Pallete option.
Bên dưới tấm hình đó, bạn có thêm một công cụ nữa để Zoom in và out. Ô text cho phép bạn gõ vào bất cứ gái trị phóng to hoặc thu nhỏ nào, và thanh trượt cho phép bạn điều chỉnh độ phóng đại bằng cách kéo nó sang trái hoặc phải và hai cái nút nhỏ ở cả hai đầu của thay trượt cho phép bạn zoom in và out bằng cách tăng độ lớn hoặc thu nhỏ với mặc định sẵn có.
Một lưu ý nhỏ cho bạn là với tiện ích của navigator palette khi bạn phóng to một bức ảnh đến cực đại là 1600%, bạn sẽ thấy viền bao quanh nó sẽ di chuyển vào trong. Bằng cách click vào bất cứ chỗ nào trên Navigator đó đều đưa bạn đến điểm bạn click chuột.
Một cách nữa để di chuyển tài liệu là dùng công cụ Hand Tool. Khi công cụ Hand Tool được chọn bạn chỉ việc click và kéo tài liệu đó tới chỗ cần thao tác. Phím tắt cho Hand Tool là Spacebar (phím cách). Một lưu ý nữa khi dùng Hand Tool là khi bạn muốn di chuyển tài liệu trong chế độ phóng lớn. Bất kể bạn đang dùng công cụ gì, nhưng khi bạn giữ phím Spacebar xuống nó sẽ tự động chuyển sang Hand Tool và cho phép bạn kéo thoải mái.
Khi bạn muốn có độ chính xác cao với file ảnh bạn đang xử lý, bạn nên đặt chế độ phóng đại là 100%. Tại những độ lơn khác kết quả có thể không chính xác như mong đợi. Nhớ rằng mức độ phóng đại hiện thời luôn được hiển thị trong thanh trạng thái, Navigation Palette hoặc thanh tiêu đề của tài liệu.
2. New view và lệnh nhân đôi (duplicate) Chọn View > New View (window > Documents > New window Photoshop 7.0) và một cửa sổ khác chứa cùng một văn bản sẽ xuất hiện. Đây không phải là một bản copy (chú ý tên của file xuất hiện trong thanh tiêu đề hiện ra chính xác với văn bản hiện thời). Nó chỉ đơn thuần là một góc nhìn thứ 2 của cùng một tấm hình. Bất cứ những thay đổi nào bạn thao tác ở cửa sổ này sẽ có kết quả tương tự như ở cửa sổ kia. Điều này cho phép bạn thiết lập 2 độ phóng đại khác nhau ở cùng một tấm hình. Điều này hết sức cần thiết khi bạn muốn zoom in một phần của tấm hình để xử lý từng chi tiết và cùng một lúc thấy kết quả của việc bạn đang xử lý ở kích thước thực tế.
Lệnh nhân đôi được đặt ở Image menu (Image > duplicate). Nhưng tôi thấy thuận tiện nhất là nháy chuột phải vào thanh tiêu đề. Chọn câu lệnh Duplicate và nó sẽ hiện ra một cửa sổ để bạn đặt tên cho file mới.
Lệnh nhân đôi rất thuận tiên khi bạn muốn giữ phiên bản gốc, hoặc bạn muốn tiếp tục xử lý, nhưng bạn nghĩ mình phải quay lại một trạng thái cụ thể sau này. Nhân đôi, tiếp tục xử lý, và nếu có gì sai sót thì chỉ việc xoá file nhân đôi đi và quay lại với file gốc. Thực ra phần History Palette là công cụ tốt nhất để thao tác khi mình muốn undo, nhưng chúng ta bàn đến nó sau.
Cũng bằng cách nháy chuột phải vào thanh tiêu đề bạn có thể thay đổi kích thước của ảnh (hoặc vào Image > Image Size). Lệnh này cho phép bạn thây đổi kích thước của file ảnh hoặc độ phân giải của nó.
3 Kích thước ảnh và độ phân giải Mục này chỉ đề cập đến mối tương quan giữa kích thước của tấm hình và độ phân giải của nó. Theo tôi thì cứ kích thước càng lớn, có độ phân giải càng cào và file càng nặng để tải. Cho nên cứ giữ nó ở mức bình thường là tốt nhất. 4 Hộp thoại kích thước ảnh Hình dưới đây cho bạn thấy kích thước của ảnh thể hiện dưới đơn vị Pixel. Mũi tên nhỏ cho phép bạn thay đổi từ Pixel thành phần trăm.
Phần hai là kích thước khi in ra của bức ảnh. Chế độ mặc định ở đây là inches, nhưng bạn cũng có thể đổi thành Cm, points, picas hoặc phần trăm.
Chú ý với Photo 6.0 trở lên
Version 6.0+ phần này được gọi là "Document Size" thay vì "Print Size".
Bây giờ bạn hãy chú ý đến cái biểu tượng link ở bên phải cả hai chiều rộng và cao của bức ảnh. Điều này có nghĩa rằng chiều cao và chiều rộng được liên kết với nhau, cho nên khi bạn thay đổi giá trị ở một ô, ô kia sẽ thay đổi theo. Để gỡ sự liên kết giữa hai giá trị, bạn chỉ cần bỏ dấu kiểm ở ô "Constrain Proportion" nhưng bạn sẽ ít khi phải làm vậy vì nó sẽ làm bức ảnh của bạn không cân đối.
Bạn chỉ nên thay đổi giá trị ở hộp kiểm Resample Image nếu bạn là một tay cự phách trong photoshop. Còn tôi thì rất ít khi dùng đến nó, cứ để theo mặc định là okie rồi!
|Quay về đầu trang|
5.Canvas Size - Kích thước Canvas Một lệnh kế tiếp khi nháy chuột phải vào thanh tiêu đề là Canvas Size. Lệnh này cũng được tìm thấy ở Image > Canvas Size
Kích thước Canvas cho phép bạn thay đổi toàn thể kích thước của tài liệu canvas mà không cần lựa chọn nội dung của tài liệu. Khi bạn tăng kích thước của tài liệu, vùng canvas sẽ được cộng thêm vào màu nền hiện tại hoặc nó sẽ là trong suốt nếu bạn không để chế độ nền. Thường thì bạn chỉ dùng Canvas Size để tăng kích thước của canvas, nhưng nó có thể được dùng để giảm hoạc cắt Canvas.
Mở một file ảnh bất kỳ và chọn lệnh Canvas Size bạn sẽ thấy một hộp thoại như thế này.
Như bạn thấy trong hình kích thước hiện tại của tấm hình được thể hiện trên cùng. Những ô giá tri cho phép bạn thiết lập giá trị mới theo chiều rộng và cao tương úng với các đơn vị phần trăm, pixel, inche, cm, points hoặc picas. Những mũi tên nhỏ cho phép bạn xác định Canvas sẽ được định dạng như thế nào. Theo mặc định của Photoshop, ô vuông ở giữa được chọn nó gia tăng một giá trị số lượng Canvas băng nhau cho tất cả các cạnh của tấm hình (giả sử rằng bạn muốn tăng canvas tấm hình của bạn). Khi bạn lựa chọn một trong bất cú những ô vuông khác canvas sẽ được thay đổi ở hướng đối diện. Ví dụ, bạn chọn ô vuông dưới cùng ở giữa, nó sẽ gia tăng kích thước ở trên đỉnh Canvas của bạn.
Bạn hãy thực hành bằng cách điền những giá trị mới vào ô chiều rộng và cao để tăng kích thước Canvas, để theo mặc định là ô vuông ở giữa được chọn. Giả sử rằng màu nền của bạn là màu trắng, bạn sẽ có một khoảng trắng thêm vào tất cả các cạnh của Canvas. Chọn Edit > Undo (hoặc Ctrl-Z) để Undo thay đổi và thay đổi với màu nền mới. Thử lại với lệnh Canvas nhưng lần này thay đổi sự lửa chọn ở các ô vuông theo ý bạn và quan sát nó tác động đến tài liệu như thế nào.
Chú ý: Nếu bạn điền một giá trị bất kỳ vào hộp thoài kích thước, và bạn muốn thay đổi ý định để giữ lại giá trị bạn đầu, hãy giữ phím Alt và nút Cancel sẽ được đổi thành nút Reset. Bằng cách nhấn Reset sẽ quay lại giá bạn đầu của nó. Cách này có thể áp dụng ở tất cả các hộp thoại của PTS (Photoshop), và bạn sẽ thấy nó rất tiện dụng, và bạn nên nhớ nó như là một lệnh tắt.
Lệnh kích thước Canvas hữu dụng khi bạn muốn thêm một khoảng bằng nhau vào Canvas của bạn, hoặc khi bạn biết chính xác bạn kích thước bạn muốn điều chỉnh, nhưng có nhiều cách làm trực giác và linh hoạt hơn để tăng hoặc giảm kích thước canvas bằng cách sử dụng Crop Tool
|Quay về đầu trang|
6 Crop Tool - Công cụ cắt Lệnh tắt cho Crop Tool là C. Công cụ Crop Tool trong PTS có nhiều tác dụng hơn chỉ là cắt ảnh. Như đã nói ở phần trên, Crop Tool có thể được dùng để tăng kích thước Canvas. Trong PTS 6 nó có thể được dùng để nhanh chóng thay đổi chiều hướng của ảnh.
Hãy thực tập với công cụ Crop Tool. Bạn hãy mở một file ảnh bất kỳ và chọn một vùng trên tấm hình để cắt. Chỉ cần giữ chuột và kéo nó, khi ban buông chuột ra sẽ có một vùng lựa chọn thể hiện dưới dạng các chấm. Bạn không cần phải tạo ra một sự lựa chọn hoàn hảo với lần cắt đầu tiên, vì bạn luôn luôn có thể chỉnh sửa lại vùng lựa chọn trước khi quyết định cắt. Tất nhiên nếu bạn làm chính xác lần đầu tiên thì bạn sẽ tiết kiệm được thời gian, tuy nhiên hình ảnh mặc định của công cụ Crop làm cho nó có vẻ khó xác định chính xác đâu là phần bắt đầu và kết thúc của vùng lựa chọn
Vùng lựa chọn thực chất bắt đầu từ trung tâm của Crop Tool, bên hình bên bạn sẽ thấy có một điểm màu đỏ, đó chính là điểm bắt đầu. Tuy nhiên nếu bạn muốn biết chính xác hơn, bạn nên đổi qua Crosshair Cursor. Tại bất cứ thời điểm nào, bạn có thể đổi từ tiêu chuẩn thành con trỏ bằng cách nhần phím Caps Lock. Lệnh tắt này có thể áp dụng được với công cụ Painting Tool. Bạn thử thực hành xem, và có thể bạn sẽ thấy rằng con trỏ rất khó nhìn thấy trong một số nền, nhưng dù sao thì nó cũng là điều tốt khi bạn có một sự lựa chọn khi cần đến.
Bây giờ bạn hãy chọn bất cự loại con trỏ nào mà bạn muốn và kéo một vùng lựa chọn trên file ảnh của bạn. Bạn có để ý thấy những ô vuông nhỏ ở các góc và viền của vùng lựa chọn không? Tác dụng của nó là để kéo và chỉnh sửa vùng lựa chọn bằng tay. Một điều nên chú ý là khi bạn kéo ở góc của vùng lựa chọn, nó sẽ gia tăng kích thước ở cả chiều rộng và cao của tấm hình. Nếu bạn giữ phím Shift thì bạn luôn có một đường thẳng. Phím Shift là một phím rất quan trọng khi bạn muốn vẽ một đường thẳng,bạn sẽ dùng đến nó rất nhiều khi dùng các công cụ như line tool, gradient ...
Khi bạn thực hành và kéo vùng lựa chọn có thể bạn sẽ thấy một khó khắn như sau. Khi bạn muốn mở rộng vùng lựa chọn ra gần với biên của cửa sổ, nhưng nó cứ "vèo" ra đến tận biên, mà mình thì muốn nó phải cách biên một chút. Hãy nhần phím Ctrl xuống và bạn sẽ thao tác rất dễ dàng.
Chú ý với Version 6.0+
Trong Photoshop 6+, vùng lựa chọn được thể hiện bởi một màu xám. Điều này làm cho nó dễ dàng hơn khi quan sát vùng lựa chọn tác động đến tài liệu như thế nào. Bạn có thể thay đổi vùng này bằng cách thay đổi độ nét từ thanh lựa chọn (option bar) sau khi bạn đã chọn lựa vùng để cắt. Bạn cũng có thể ẩn bóng đi bằng cách bỏ dấu kiểm khỏi ô "Shield Cropped area"
Khi bạn rê con trỏ vào trong vùng lựa chọn, nó sẽ đổi thành mũi tên màu đen. Điều này có nghĩa rằng bạn có thể di chuyển vùng lựa chọn. Giư phím Shift để di chuyển chính xác hơn.
Khi bạn rê con trỏ đến góc của vùng lựa chọn, bạn sẽ thấy nó biến thành một mũi tên cong. Khi đó bạn có thể xoay vùng lựa chọn để duỗi thẳng một tấm hình cong. Điểm ở giữa của vùng lựa chọn cho phep bạn xác định điểm trung tâm mà ở đó vùng lựa chọn được xoay vòng. Bạn có thể di chuyển điểm trung tâm này bằng cách giữ và kéo nó.
Khi bạn muốn huỷ bỏ vùng lựa chọn ấn phím Esc. Hoặc khi bạn muốn thiết lập vùng lựa chọn nhấn phím Enter hoặc đơn giản là nháy đúp vào vùng lựa chọn
Chú ý Version 6.0+
dấu tích là thiệt lập vụng lựa chọn còn dấu "X" là huỷ bỏ.
Bạn có thể quay lại với trạng thái ban đầu của bức ảnh bằng cách vào File > Revert.
Với tuỳ biến của công cụ Crop Tool, có một hộp kiểm để thiết lập định dạng Fixed Target size.Khi hộp kiểm này được chọn, bạn có thể lựa chọn độ phân giải của file ảnh. Với version 6+ bạn sẽ không thấy hộp kiểm nhưng bạn có thể gõ giá trị vào ô Width, Height và Resolution để thay đổi độ phân giải của tấm ảnh thay vì cắt.
|Quay về đầu trang|
7 thực hành với Crop Tool
Bây giờ thực hành một chút với công cụ Crop Tool. Bạn hãy lưu hai bức ảnh này lại. Nháy chuột phải và chọn "Save target as". Bài thực hành này áp dụng cho cả hai phiên bản 5 và 6+ croppractice1.jpg croppractice2.jpg
Bài thực hành 1 Thay đổi hình dạng, tăng kích thước Canvas và thêm vào đường viền
Trước khi cắt
Sau khi cắt
Cắt file ảnh để có được kết quả như trên. Hình ở dưới hiển thị vùng lựa chọn mà bạn sẽ thiết lập
Tiếp đến dùng công cụ Crop Tool để mở rộng Canvas Size và thêm vào đường viền màu đen cùng một lúc. Đầu tiên hãy chọn nền trước là màu đen (Nhấn phím D) tiếp theo thiết lập vùng lựa chòn và kéo đường biên ra ngoài file ảnh như hình bên trái. Khi bạn hài lòng vói vùng lựa chọn của bạn, hãy xác nhận vùng lựa chọn (Nháy kép vào vùng lựa chọn kết quả sẽ được như hình bên phải.
Bài thực hành 2 Xoay chuyển file ảnh với công cụ Crop Tool
Trước khi cắt
Sau khi cắt
Cắt file ảnh để có được kết quả như trên. Hình ở dưới hiển thị vùng lựa chọn mà bạn sẽ thiết lập
Source:Bá tước Monte Cristo bantayden.com | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Thu Jun 05, 2008 10:50 pm | |
| Bài thực hành 3 Xoay ảnh và sửa lỗi hình bị lệch Lưu file sau vào máy của bạn (Nháy chuột phải chọn save target as)
croppractice3.jpg
Trước khi cắt
Sau khi cắt
Cắt file ảnh để có được kết quả như trên. Hình ở dưới hiển thị vùng lựa chọn mà bạn sẽ thiết lập.
Sau khi bạn thiết lập vùng lựa chọn, bạn muốn xoay nó để chó nó ngay ngắn lại, di chuyển góc trên bên phải chạm vào biên của bức ảnh. Chú ý rằng cạnh đáy phải song song với nền nhà, và hai đường biên hai bên phải song song với hai bên nhà. Nhớ rằng bạn có thể dùng phím Shift để tạo vùng lựa chọn thẳng hơn.
Nếu bạn di chuyển tâm điểm của tấm hình hoặc đặt góc của vùng lựa chọn sai vị trí, PTS sẽ hiển thị một thông báo lỗi. Nếu bạn thấy thông báo này, bạn phải định vị lại góc vùng lựa chọn và thử lại lần nữa.
Sau ba bài thực hành ở trên, tôi hy vọng bạn đã quen dần với công cụ cắt Crop Tool. Bây giờ chúng ta chuyển sang mục mới History Palette - Palette sự kiện
|Quay lại đầu trang|
8. History Palette - Palette sự kiên Bây giờ bạn đã biết một số lệnh cơ bản để xử lý ảnh, do vậy nó cũng rất cần thiết để biết làm cách gì Undo những thay đổi và sửa lỗi. Bạn có thể dùng Ctrl-Z để Undo, nhưng nó chỉ có tác dụng từng hành động một, hãy thử tượng tượng bạn đã làm đến 17 thao tác và muốn quay lại thao tác thứ 2, 3 thì chẳng lẽ undo đến 15 lần? Đó là lý do tại sao có thêm History Palette
Nhìn vào hình bên cạnh là History Palette. Trên cùng của Palette này là một tấm hình nhỏ và tên của file đó Bất cứ khi nào bạn mởi một file ảnh, PTS sẽ tạo ra một tấm ảnh nhỏ và đặt nó ở vị trí này. Cách nhanh nhất để Undo toàn bộ thao tác là nháy kép vào bức ảnh, bạn cũng có thể tạo ra thêm một bức ảnh nữa bằng cách chọn biệu tượng new snapshot từ Menu của History Palette hoặc nhấn vào nút new Snapshot .
Thực hành với History Palette bằng cách tạo ra một số thay đổi như là thay đổi kích thước, cắt ảnh. Tiếp đến bạn hãy tạo ra một Snapshot. Bây giờ nhấn vào snapshot đầu tiên trong danh sách. Bức ảnh sẽ trở lại trạng thái ban đầu. Nhấn vào Snapshot thứ hai bạn sẽ quay lại với phiên bản đang xử lý. Kết hợp với History Brush, Snapshot có thể là một công cụ rất đắc lực.
Dưới Snapshot bạn sẽ thấy có những đường kẻ phân biệt, và một danh sách của những thay đổi gần nhất mà bạn tao ra cho bức ảnh. Bạn có thể Undo bất cứ thao tác nào chỉ bằng cách chọn sự thay đổi cuối cùng bạn muốn trở lại, hoặc kéo biểu tượng mũi tên nhỏ xuất hiện bên cạnh mỗi thao tác. Thanh trượt này hữu dụng là vì có khi bạn không chắc bạn phải quay lại bao nhiêu bước bời vì nó cho phép bạn xem trước những thay đổi khi bạn di chuyển nó lên hoặc xuống.
Với chế độ mặc định PTS chỉ cho phép 20 thao tác bạn tạo ra cho bức ảnh, còn những thao tác trước đó sẽ bị xoá khỏi list để dành bộ nhớ cho PTS. Nếu máy tính của bạn có dung lượng bộ nhớ cao thì bạn có thể tăng con số này lên qua History Option trong History Palette. Nếu bạn muốn giữ bộ nhớ cho PTS thì bạn nên tạo ra những snapshot tại những điểm quan trọng trong suốt quá trình xử lý, do đó bạn có thể quay lại với trạng thái trước đó.
Dưới cuối cùng của History Palette có 3 nút. Nút thứ nhất để tạo ra một văn bản mới và có tác dụng giống như lệnh Duplicate khi bạn nhân đôi file ảnh, tất cả những sự kiện trước đó sẽ bị xoá với bản nhân đôi. Nút thứ 2 tạo ra một snapshot mới. Bằng cách này thì thao tác nhanh hơn là phải vào menu nhưng nó không cho phép bạn thay đổi tên của snapshot. Snapshot mới sẽ được đặt tên tự động theo dạng số. Nút cuối cùng là xoá đi trạng thái hiện tại hoặc snapshot phụ thuộc vào cái gì được chọn trên palette
Trước khi kết thúc phần History Palette tôi muốn chỉ ra một vài đỉêm quan trọng mà bạn nên biết về History Palette.
History và Snapshot không lưu lại với file ảnh. Đóng hoặc mở một file ảnh sẽ xoa hết những thao tác cũ và snapshot
Quay lại với thao tác trước và tiến hành thao tác mới sẽ xoa hết những sự kiện theo sau nó.
Xoá một thao tác sẽ xoá hết những sự kiện theo sau nó, trừ phi non-linear option được chọn
Ctrl-Alt-Z = di chuyển lên trong History Palette
Ctrl-Shift-Z = Di chuyển xuống trong History Palette
9. Lưu lại file ảnh Chắc tôi không phải đề cập nhiều về mục này, vì ai cũng biết cách Save một file như thế nào rồi phải không? chỉ có phần Save for web thì tôi sẽ đề cập kỹ hơn ở một bài viết khác.
source:Bá tước Monte Cristo bantayden.com | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Fri Jun 06, 2008 11:38 pm | |
| Chương 4: Image Modes và Lựa chọn màu sắc --------------------------------------------------------
1. Color Picker - Bảng chọn màu Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc quan sát bảng chọn màu của PTS. Bạn mở bảng chọn màu bằng cách nháy một lần vào Color Swatch trong hộp công cụ. Trong hình minh hoạ ở dưới, màu đen là màu lựa chọn hiện thời khi tôi mở bảng chọn màu lên. Chú ý đến một vòng trong nhỏ ở góc trái của của bảng màu, vòng tròn này bao quanh màu được chọn. Nháy chuột vào bất cứ chỗ nào và vòng tròn sẽ thể hiện như sau.
Chú ý đến 2 hình vuông ở ngay bên trái của nút Cancel. Màu ở trên là màu lựa chọn hiện thời, màu ở dưới là màu đã được thay thế. Nếu bạn thấy một hình tam giác và một dấu chấm than (!) nó chỉ ra rằng màu đó nằm ngoài Gam màu của CMYK. Dưới biểu tương cảnh báo Gam màu là màu gần giống nhất trong Gam màu CMYK. Nếu bạn thấy một hình khối nhỏ, nó có thông báo rằng màu bạn chọn không được "an toàn" trên mạng (Web-safe). Ở dưới Web-safe thông báo PTS thể hiện một hình vuông nhỏ nữa cho thấy một sự lựa chọn gần giống nhất với màu Web-safe. Nếu bạn nháy chuột vào 1 trong hai ô vuông này, màu bạn chọn sẽ là màu ở ô vuông đó.
Bây giờ bạn hãy để ý đến những ô giá trị số ở bên góc phải của hộp thoài màu. Những ô này cho phép bạn điền giá trị số vào bằng rất nhiều cách. Màu mặc định cho bảng chọn màu được chọn bởi Hue. Bạn phải có một dấu chấm bên chạn chữ H trong bảng chọn màu nếu bạn vẫn đang sử dụng chế độ mặc định. Nếu bạn di chuyển vòng tròn từ trái qua phải trong ô màu lớn bạn sẽ thay điều chỉnh độ đậm (Saturation) của màu sắc. Thử đi và bạn sẽ thấy chữ S thay đổi từ 0 (tận cùng bên trái) thành 100 (tận cùng bên phải). Di chuyển vòng tròn từ trên xuống dưới điều chỉnh độ sáng (Brightness) của màu sắc. Khi bạn di chuyển vòng tròn từ trên xuống dưới chú ý đến sự thay đổi giá trị của chữ B từ 0 đến 100. Để thay đổi màu (Hue), bạn có thể chọn vạch màu cầu vồng ở ngay bên cạnh bảng chọn màu lớn, hoặc bạn có thể kéo thanh trượt lên hoặc xuống.
Một phần nhỏ để các bạn chú ý, ở những bài thực hành tới khi tôi nói các bạn chọn màu dựa vào giá trị RGB của nó. Thì các bạn hãy điền giá trị số tương ứng với R, G và B. Ví dụ giá trị RGB là 50% xám sẽ là R128-G128-B128, và sẽ được điền như sau.
Chú ý V 6.0+
Trong PTS 5.5 trở lên bảng chọn màu sẽ có thêm một hộp kiểm "Only web color". Nó giới hạn bảng chọn màu chỉ thể hiện màu trong độ an toàn của Web (Web safe color). Thêm nữa bạn cũng có thêm một ô để điền giá trị Hexadecimal được sử dụng trong HTML. Trường này được thể hiện bằng dấu #
2. Color Palette và Swatch
Thêm vào hộp thoại chọn màu, PTS cung cấp thêm 2 Palette nữa để lựa chọn màu: Color Palette và Swatch Palette
Color Palette cung cấp một dải màu ở dưới cùng của Palette để bạn có thể chọn nhanh một màu gần giống. Khi bạn kéo chuột trượt trên dải màu này, nó sẽ đổi thành Eye Dropper. Kích chuột vào dải màu sẽ đổi màu của nền trước. Alt click vào dải màu sẽ đổi màu nền sau. Màu hiện tại của nền trước và nền sau cũng được thể hiện trong Color Palette.
Nếu màu được chọn nằm ngoài Gam màu, Color Palette cũng xuất hiện một Gam màu cảnh báo. Thanh trượt ở color Palette cho phép bạn lựa chọn màu tỉ mỉ hơn bằng cách điều chỉnh mỗi thanh trượt hoặc điền giá trị vào ô. Nháy chuột phải hoặc Ctlr-click vào dải màu cho phép bạn thay đổi sự thể hiện của dải màu. Bạn có thể thay đổi sự thể hiện của dải màu bằng cách dùng Color Palette menu, và nó cũng cho phép ban thay đổi thanh trượt thể hiện trên Color Palette để chọn màu bằng cách sử dụng RGB, HSB, CMYK hoặc những vùng màu khác
Chú ý Version 6.0+
Trong PTS 6.0+, dải màu còn có thể hai ô nhỏ màu trắng và đen. Điều này làm cho bạn dễ dàng hơn khi phải chọn màu trắng hoặc đen tinh khiết.
Hình bên phải là Swatch Color Palette.
Mặc định của Swatch là một tổ hợp các nhóm màu, nhưng giá trị thực của Swatch Palette là khả năng chèn những mẫu màu tuỳ biến. Với một tổ hợp các nhóm màu tuỳ biến bạn có thể giới hạn mình để lựa chọn cụ thể một màu mà không cần nhớ bất cứ giá trị số nào của nó. Ví dụ bạn có thể tạo ra một màu tuỳ biến từ màu của một tấm hình của bạn, và sử dụng màu này để làm việc với những hình khác.
Sau đây tôi liệt kê những thao tác về color swatch cho bạn thử:
- Bạn hãy chọn nền trước. - Alt-click để chọn nền sau trong PTS 6.0. Trong phiên bản 7.0 thì Ctrl-click để chọn màu nền sau. - Khi bạn di chuyển con trỏ qua một vùng trống của Swatch Palette, nó sẽ biến thành Paint Bucket và bạn có thể nháy chuột để thêm một màu mới vào Swatch Palette. Trong PTS 6+ chúng ta sẽ được nhắc để đặt tên cho màu. - Trong PTS 6.0, khi bạn giữ phím Ctrl xuống và rê con trỏ qua một Swatch (một ô màu mẫu nhỏ), con trỏ sẽ biến thành hình cái kéo và bạn có thể Xoá một màu. Trong PTS 7, sử dụng phím Alt để xoá một màu. - Để đổi một màu của Swatch, chọn một màu mới sử dụng công cụ lấy màu, rê con trỏ qua một ô Swatch mà bạn muốn thay thế, và nháy vào nó để thay thế màu cũ với một màu mới. - Trong PTS 6, bạn có thể nháy đúp vào một màu để đổi tên. - Bạn có thể quay lại với Swatch mặc định bằng cách chọn Reset Swatch từ Swatch Palette menu. - Bạn cũng có thể thêm, thay thế và lưu lại bộ Swatch từ Swatch Palette menu.
|Quay về đầu trang|
3. Eye Droper và Palette Info Với công cụ Eyedropper bạn có thể lấy một màu từ bất cứ một file ảnh nào được mở. Lệnh tắt cho công cụ này là I. Chỉ đơn giản nháy Eyedropper vào file ảnh để đổi màu nền trước. Alt-click để thay đổi nền nền sau.
Khi hộp thoại chọn màu hiện ra, con trỏ sẽ tự động đổi thành Eyedropper bất cứ lúc nào bạn di chuyển nó ra ngoài hộp thoại chọn màu vào một tài liệu đang được mở. Bất cứ lúc nào nếu Painting tool được chọn sẽ tạm thời được đổi thành Eyedropper để đổi nền trước bằng cách nhấn Alt.
Nháy kép vào Eyedropper trên hộp công cụ để chọn công cụ Eyedropper (Trong PTS 6 sự lựa chọn ở Option bar). Option bar cho phép bạn cụ thể một mẫu đơn pixel, tỉ lệ 3X3 hoặc 5x5. Trong hầu hết các trường hợp, tỉ lệ 3X3 đều okie. Bằng cách này có thể trung hoà 3 pixel bao quanh vùng mà bạn click. Bạn cũng có thể thay đổi hình mẫu bằng cách nháy chuột phải vào bất cứ chỗ nào trên file ảnh khi công cụ Eyedropper được chọn.
Công cụ Eyedropper có thể được dùng cùng lúc với Info Palette để đọc giá trị màu từ file ảnh của bạn. Hiện thị Info Palette, chọn Eyedropper và di chuyển nó vào file hình của bạn. Với chế độ mặc định, Info Palette hiển thị giá trị RGB và CMYK cùng với toạ độ X và Y của con trỏ. Khi bạn tạo một sự lựa chọn, Info Palette cũng hiện thị độ rộng và chiều cao của vùng lựa chọn.
source: Bá tước Monte Cristo Bantayden.com | |
| | | phuthuy_heoquay$$$ Hiệu phó - Giáo sư - Thần sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 522 Age : 28 Đến từ : sô 7 - tầng thứ 7 - Cầu Vồng số 7 - năm 2007 Registration date : 20/01/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun Jun 08, 2008 9:24 am | |
| ơ =.= post hình đi, trong cái bản gốc của nó tớ thấy có hình mà >"< Đọc thế này khó hiểu Đưa mấy cái ảnh chụp màn hình lên ý, làm hình minh họa | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun Jun 08, 2008 2:11 pm | |
| - phuthuy_heoquay$$$ đã viết:
- ơ =.= post hình đi, trong cái bản gốc của nó tớ thấy có hình mà >"<
Đọc thế này khó hiểu Đưa mấy cái ảnh chụp màn hình lên ý, làm hình minh họa Uả có hả? Ai biết đâu tớ đi kiếm ở cái trang Cisdoma gì áy, đâu có vô trang chính mà tìm nên hem coá bik. Để thử kiếm về post hình lên cho mọi người. Nếu đc thì sẽ post, còn ko thì đừng lấy đá chọi em nha ! @TS Sái chân : Cái nì có cộng điểm hôn? | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun Jun 08, 2008 2:17 pm | |
| Chương 5: Selection và Mask -------------------------------------- 1. Công cụ Marquee Selection Trong phần này chúng ta sẽ khám phá tất cả những công cụ Selection trong PTS cộng với Mask, kênh Alpha (Alpha Channels), và biến đổi vùng lựa chọn (Transformation of Selection). Những công cụ lựa chọn bao gồm Marquee Tool, Lasso Tool và Magic Wand. Tuy nhiên, chúng ta sẽ bàn tới rất nhiều cách để tạo hoặc "tỉa tót" vùng lựa chọn sử dụng Quick Mask Mode, Alpha Channel và lệnh Transform Selection.
Sau đây là một số tổ hợp phím bạn nên nhớ khi dùng kết hợp với công cụ lựa chọn. Để dễ hiểu hơn bạn nên vừa đọc vừa làm. Vì diễn đạt bằng lời rất khó!
Giữ phím Shift và kéo Selection Marquee tạo cho vùng lựa chọn một hình vuông hoặc tròn
Giữ phím Shift và kéo Selection Marquee khi một vùng lựa chọn khác đang hiển thị sẽ "thêm" vào vùng lựa chọn
Giữ phím Alt và kéo Selection Marquee khi một vùng lựa chọn khác đang hiển thị sẽ "bớt" đi ở vùng lựa chọn
Giữ phím Alt và kéo Selection Marquee vùng lựa chọn của bạn sẽ mở rộng ra từ nơi mà bạn nháy chuột đầu tiên
Bạn có thể kết hợp 2 phím Shift và Alt để tạo một sự lựa chọn kéo ra từ tâm và "thẳng".
Bạn có thể kết hợp 2 phím Shift và Alt khi một vùng lựa chọn khác đang hiển thị sẽ tạo ra một vùng lựa chọn giao nhau (Vùng mà ở đó hai vùng lựa chọn chồng lên nhau)
Để định vị lại vùng lựa chọn trong khi bạn đang vẽ nó, giữ phím Spacebar. Miễn là phím Spacebar được giữ bạn có thể di chuyển vùng lựa chọn, khi bạn thôi không giữ phím Spacebar nữa, bạn có thể tiếp tục công việc chọn. Vùng lựa chọn sẽ không được thiết lập cho đến khi bạn buông chuột.
Bạn có thể di chuyển vùng lựa chọn sau khi bạn đã thiết lập nó bằng cách di chuyển con trỏ vào trong vùng lựa chọn miễn là công cụ Marquee Tool đang được kích hoạt. Con trỏ của bạn sẽ trông như thế này sau đó bạn có thể nhấp và kéo vùng lựa chọn đến vị trí mới. Bạn cũng có thể dùng mũi tên trên bàn phím để di chuyển nó.
Ctrl-A Lựa chòn toàn bộ bức ảnh
Ctrl-D hủy bỏ vùng lựa chọn.
Shift-Ctrl-I Xác nhận vùng lựa chọn.
Ctrl-H Giấu vùng lựa chọn nhưng vẫn xác nhận nó.
Chú ý Version 6.0+
Trong PTS 6+, bạn cũng có thể chọn add/ subtract/ intersect từ tổ hợp nút trên Option Bar 6 . Hơn nữa lệnh tắt Ctrl-H trong PTS 6 còn là lệnh gõ tắt của một số lệnh khác, cho nên bạn phải gõ ít nhất 2 lần để vùng lựa chọn bị giấu đi.
2. Lasso và Wand Tool Selection
Trong phần này chúng ta sẽ học cách sử dụng ba công cụ lasso tools. Lệnh tắt cho công cụ Lasso Tool là L và Shift-L sẽ thay đổi giữa ba công cụ Lasso Tool
Công cụ lasso Tool bình thường cho phép bạn tạo vùng lựa chọn "bằng tay". Chỉ việc nhấp và kéo để vẽ vùng lựa chọn. Khi bạn buông chuột vùng lựa chọn sẽ tự động đóng lại, tạo ra một đường thẳng nối điểm đầu và điểm cuối với nhau. Lệnh tắt để "thêm" và "bớt" vùng lựa chọn giống như Marquee Tool. Dưới đây là một số lệnh bổ sung cho Lasso Tool.
Nếu bạn muốn vẽ một đường thẳng với Lasso Tool, hãy giữ phím Alt và tạo một loạt những chấm đơn thay vì kéo.
Bạn có thể thay đổi giữa công cụ "vẽ tay" và "đường thẳng" bằng cách giữ phím Alt trong khi bạn vẽ vùng lựa chọn. Cái này hơi rắc rối một chút, bạn phải chắc rằng bạn nhấp hoặc thả phím Alt trong khi bạn phải giữ chuột nếu không vùng lựa chọn sẽ đóng lại.
Bạn có thể giữ phím Delete để xoá đi nét vẽ gần nhất.
Công cụ Polygonal Lasso được dùng để vẽ vùng lựa chọn bằng đường thẳng. Bạn có thể dùng công cụ Polygonal Lasso như là công cụ Lasso bình thường bằng cách giữ phím Alt để vẽ sự lựa chọn bằng công cụ Freehand. Một sự khác biệt giữa công cụ Polygonal Lasso là bạn có thể dùng phím Shift để tạo một đường thẳng 45 độ. Nếu bạn vẽ một đường thẳng bạn có thể nhấn phím Delete bất cứ lúc nào để xoá đi nét vẽ cuối cùng. Muốn xoá đi bao nhiêu nét vẽ, chỉ việc nhấn tưng đấy lần Delete.
Nếu bạn dùng công cụ Polygonal lasso tool để tạo một vùng lựa chọn "bằng tay" bạn có thể giữ phím Delete để xoá đường thẳng đó từ từ. Cách này cũng hơi phức tạp một chút, vì bạn đã nhấn phim Alt xuống rồi để vẽ "bằng tay". Điều mà bạn phải làm là bỏ chọn phím Alt và giữ phím Deleete. Và bạn có thể xoá bao nhiêu tuỳ thích, bạn có thể quay lại để giữ phím Alt để tiếp tục việc lựa chọn bằng công cụ Freehand.
Công cụ Magnetic Lasso Tool có công dụng tương tự như công cụ Lasso Tool khác, nhưng nó có một tính năng đặc biệt là có thể "men theo" vùng tương phản và nó sẽ "dính" vào viền của mô hình mà bạn đang lựa chọn. Chính bởi vì tính năng đặc biệt này, cho nên Magnetic Lasso tool có nhiều tuỳ biến hơn những công cụ Lasso khác. Những tính năng này bạn sẽ gặp ở những bài tập tiếp theo.
Bạn có thể tạm thời đổi sang công cụ Lasso Tool thông thường khi đang sử dụng công cụ Magnetic Lasso bằng cách giữ phím Alt và kéo. Hoặc bạn có thể tạm thời đổi sang Polygonal Lasso Tool bằng cách nhấn phím Alt và nhấp. Phím Delete cho phép bạn xoá các điểm. Sau đây là những lệnh gõ tắt mà chưa được nói tới:
Bạn có thể điều chỉnh độ rộng của Lasso khi bạn vẽ bằng cách sử dụng mũi tên trên bàn phím hoặc phím [ và ]
Bạn có thể điều chỉnh tần số khi bạn đang vẽ bằng cách sử dụng dấu ; (chấm phẩy) hoặc dấu ' (dấu móc lửng)
Bạn có thể điều chỉnh viền tương phản khi bạn vẽ bằng cách sử dụng dấu , (dấu phẩy) và dấu . (dấu chấm)
Đóng vùng lựa chọn với công cụ Polygonal Lasso và Magnetic Lasso có một chút khác biệt với công cụ Freehand Lasso tool. Với công cụ này có 2 cách để đóng vùng lựa chọn
Nếu bạn di chuyển con trỏ trong vòng vài pixel ở điểm khởi đầu, bạn sẽ thấy một vòng tròn nhỏ xuất hiện bên cạnh con trỏ điều đó có nghĩa rằng khi bạn nhấp chuột một lần, vùng lựa chọn sẽ đóng.
Nếu bạn không ở gần điểm xuất phat và bạn muốn đống vùng lựa chọn bạn phải nháy kép. - Nếu bạn sử dụng Polygonal hoặc Magnetic Lasso Tool với phím Alt để tạo vùng lựa chọn bằng tay, bạn phải nhả phím Alt ra trước và rồi sau đó nháy kép để đóng vùng lựa chọn.
Cuối cùng nhưng không kém phần "long trọng" là công cụ Magic Want Tool. Công cụ Magic Wand tạo vùng lựa chọn dựa trên điểm tương đồng về màu sắc. Lệnh gõ tắt cho công cụ này là W.
Trên thanh Option Bar hộp kiểm Tolerance kiểm soát phạm vi của màu được lựa chọch và có phạm vi từ 0 đến 255. Để lựa chọn một phạm vi nhỏ của màu hãy điền một số nhỏ vào ô và ngược lại.
Hộp kiểm Use all Layers cho phép bạn lựa chọn dựa trên dữ liệu từ tất cả layer nhìn thấy (chúng ta sẽ học về layer trong những bài sau)
Khi hộp kiểm Contiguous được chọn, vùng lựa chọn chỉ bao gồm những pixel gần kề của phạm vi màu tương tự. Nếu bạn muốn chọn tất cả các vùng của màu cùng một lúc bạn phải bỏ dấu kiểm ở Contiguous.
Cũng như các công cụ lựa chọn khác bạn có thể dùng phím Shift để "thêm" vào vùng lựa chọn, Alt để "bớt".
3. Thực hành với Marquee Selection
Bây giờ bạn học được cũng kha khá rồi! hãy thực tập bằng cách tạo một số hình cơ bản với công cụ Selection.
Bắt đầu bằng việc mở một New document (File > New) 400x400 Pixels, nền trắng.
Với những bài thực hành này chúng ta sẽ tạo những hình cơ bản bằng cách fill vùng lựa chọn.
Để fill = tô (chúng ta coi như là thế) vùng lựa chọn với màu nền (background) bạn dùng tổ hợp phím Ctrl-Spacebar+Delete. Tô với nền trước dùng Alt-Spacebar+Delete.
Cho hình đầu tiên bạn vẽ một ô vuông, và "bớt" một vòng tròn ở giữa sau đó tô nó màu đen. Sử dụng Polygonal Lasso để tạo một hình lục giác (đừng quên phím Shift giúp bạn tạo một đường thẳng)
Sau đó xác nhận vùng lựa chọn (Shift-Ctrl+I) và tô với màu trắng. Bởi vì chỉ là thực tập, cho nên hình cũng chỉ tương đối thôi.
Bạn vào View menu và chọn chế độ hiển thị thước kẻ (Ruler) hoặc nhấn tổ hợp phím Ctrl+R. Hiển thị chế độ ô kẻ (grid) cũng từ View menu hoặc Ctrl -. Nháy kép vào thước kẻ và đổi đơn vị thành Pixels. Chọn Next và cài đặt ô kẻ ở mỗi 50 pixel với 5 Subdivisions. Xem hình minh hoạ
Sử dụng Grid để giúp bạn vẽ một hình tam giác cân đối
Thêm một hình vuông để tạo ra hình ngôi nhà, sau đó sử dụng tiếp công cụ Rectangular Tool để tạo ra cửa sổ và cửa chính. Với Single Row Marquee bạn có thể thêm vào một dòng để hình thành cạnh đáy cho ngôi nhà.
Bây giờ bạn hãy thử tạo ra một hình bán nguyệt và một cái cây bên cạnh xem nào?
Sau đó sử dụng Magic Wand kết hợp với những công cụ khác để thay đổi màu của ngôi nhà.
source: Bá tước Monte Cristo Bantayden.com | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun Jun 08, 2008 2:22 pm | |
| 4. Selection menu command - Lệnh chọn menu.
Chúng ta đã biết những lệnh gõ tắt sau: Chọn tất cả = Ctrl - A Bỏ chọn = Ctrl - D Chọn lại = Shift-Ctrl-D Xác nhận vùng chọn = Shift-Ctrl-I
Lệnh Feather cho phép bạn làm dịu hoặc mờ (Soften hoặc Blur) cạnh của vùng lựa chọn băng một giá trị pixel cụ thể. Bạn có thể tự thực hành với tấm hình của bạn để tạo ra hiệu ứng như hình bên.
Tạo ra một vùng lựa chọn Oval
Giá trị Feather là 10-20 Pixels
Thiết lập vùng lựa chọn (Shift-Ctrl-I)
Tô nó với màu của background
Lệnh Feather thường được dung khi bạn chỉ muốn làm mờ vùng lựa chọn một vài pixels, nhưng trong hầu hết trường hợp bạn cần đến nhiều kỹ năng hơn. Chúng ta sẽ bàn đến những sự lựa chọn tốt hơn khi học đến Quick Mask Mode.
Tiếp đến là lệnh Modify ở menu phụ nó bao gồm lệnh Border, Smoth, Expand và Contract.
Border: Nếu bạn đã có một vùng lựa chọn từ trước thì Border tạo khung cho vùng lựa chọn đấy. Border có thể có kích thước từ 1 cho đến 64 pixel. Hãy xem ví dụ ở dưới khi một hình tròn được đổi thành một vùng lựa chọn có đường biên là 10 Pixel
Vùng lựa chọn ban đầu
Đổi thành vùng lựa chọn có đường biên là 10 Pixel. Bạn sẽ rất ít khi dùng đến lệnh này, bởi vì khi bạn tô màu cho nó, bạn sẽ thấy hình bị nhoè
Khi bạn muốn vùng lựa chọn được sắc nét bạn nên dùng lệnh Stroke. Nếu bạn quay lại nhưng thao tác trước khi chúng ta dùng lệnh Border trong History Palette, bạn có thể chọn Edit > Stroke.
Định dạng chiều rộng và vị trí của Stroke, bạn sẽ có một đường viên sắc nét như hình bên.
Lệnh Smooth làm mềm mại tất cả những điểm góc cạnh trong vùng lựa chọn của bạn. Trong ví dụ dưới đây, hình thứ nhất là tôi vẽ từ công cụ bằng tay với công cụ Lasso Tool đã được áp dụng chế độ Stroke. Hình thứ hai cũng giống như hình một, nhưng dùng lệnh Smooth với bán kính là 10. Với hình cuối cùng, tôi lại áp dụng lần nữa lệnh Smooth và vẫn với bán kính bằng 10.
Bạn hãy tự thực hành đi. Hãy nhớ rằng bạn có thể Stroke một vùng lựa chọn và di chuyển nó bằng cách nhấp vào trong nó và kéo.
Expand gia tăng độ rộng của vùng lựa chọn bằng một giá trị pixel cụ thể, Contract làm giảm vùng lựa chọn với một giá trị cụ thể.
ban đầu
Expand 10 pixels
Contract 10 pixels
Lệnh Grow mở rộng vùng lựa chọn bao gồm những vùng phụ cận mà có màu giông nhau tại vùng lựa chọn hiện tại. Lệnh Similar gia tăng vùng lựa chọn bao gồm vùng không phụ cận mà có cùng tông màu. Trong ví dụ ở dưới, đầu tiên tôi dùng Lasso Selection bên trong chiếc lá.
Sử dụng lệnh Grow, vùng lưa chọn mở rộng ra toàn bộ chiếc là như trong hình.
Sử dụng Similar, vùng lựa chọn mở rộng cho đến khi bao trùm cả hai lá.
Cách này tương tự với Contiguous option của Magic Wand tool. Grow tương đương khi hộp kiểm Contiguous được đánh dấu, và Similar tương đương khi Contiguous không được chọn [Quay về đầu trang]
5. Transform Selection
Lệnh Transform Selection cho phép bạn có nhiều quyền kiểm soát với vùng lựa chọn hơn.
Khi bạn kích hoạt lệnh Transsform Selection, sẽ có một vùng bao quanh lấy vùng lựa chọn như hình, hình này cũng giống như khi bạn dùng Crop Tool vậy. Bạn cũng có thể kéo và dãn vùng lựa chọn đó nhờ vào các ô vuông nhở dọc hai bên. Sau đây là những lệnh gõ tắt, bạn cũng nên vừa đọc vừa làm theo ví dụ, vì diễn đạt bằng lời đã khó, chuyển ngôn còn khó hơn.
Giữ phím Ctlr và kéo ô vuông ở giữa các đường biên cho phép bạn làm "lệch" hình.
Giữ phím Ctrl và kéo ở góc cho phép bạn chỉ làm "méo" hình ở góc bị kéo
Giữ phím Alt và kéo ở góc sẽ định dạng kích cỡ của hình vào trung tâm
Giữ phím Alt và kéo ở một cạnh sẽ thiết lập Transform ở cả hai cạnh.
Phím Shift có thể kết hợp với các phím khác để luôn được một đường thẳng.
Bạn có thể xoay vùng lựa chọn bằng cách di chuyển con chuột ra ngoài vùng lựa chọn và con trỏ sẽ biến thành một mũi tên cong, lúc đó bạn có thể xoay vùng lựa chọn.
Bạn có thể "lật" vùng lựa chọn bằng cách kéo từ cạnh này qua cạnh kia.
Để thiết lập Transformation, nháy kép vào trong vùng lựa chọn
Bỏ Transformation nhấn phím ESC
Bạn có thể truy nhập thêm những lệnh Transformation băng cách nháy chuột phải vào trong vùng lựa chọn sẽ có một menu hiện ra. Menu này cho phép bạn điền giá trị số để định nghĩa vùng lựa chọn.
Chú ý Version 6.0
Ở PTS 6 bạn có thể điền giá trị số trên thanh Option bar.
Thực tập với lệnh Transformation bằng cách tạo ra những hình tương tự như sau.
Practice transforming selections to make the following shapes:
[Quay về đầu trang]
6. Quick Mask
Chúng ta tiếp tục bài học với Quick Mask Mode và Alpha channels. Lý do để chúng ta học cùng một lúc hai lệnh trong một mục là vì hai lệnh này rất giống nhau. Sau này khi bạn học đến Layer, những nguyên lý sau có thể áp dụng để làm việc với Layer Mask và điều chỉnh Layer.
Thực chất lệnh Mask hoặc Alpha Channel là một cách trực quan hơn để thể hiện vùng lựa chọn. Trong các bài trước chúng ta đã sử dụng lệnh Feather trong vùng lựa chọn để tao ra hiệu ứng làm mờ đường viền. Bạn có thể thêm giá trị số để kiểm soát, tuy nhiên bạn không thể nhìn thấy kết quả cho đến khi bạn xoá layer background
Chúng ta hãy học lệnh Quick Mask bằng cách tạo hiệu ứng mờ đường biên bằng một cách khác. Mở một file ảnh và tạo một vùng lựa chọn hình Elip.
Nút Quick Mask được đặt ở trong hộp công cụ Tool Box. Lệnh gõ tắt cho nó là Q, và nó có thể được dùng để tắt hoặc mở Quick Mask Mode.
Sau khi bạn đã tạo được hình Elip, nhấn phím Q để chuyển sang Quick Mask Mode. Vùng không được lựa chọn sẽ là vùng nhìn thấy được qua vùng màu đỏ.
Vùng màu đỏ thể hiện "mask". Bây giờ chúng ta muốn tạo hiệu ứng làm mờ đường biên. Chọn Filter > Blur > Gaussian Blur. Bạn có thể phải nhấp và kéo ở ô xem trước để thấy được đường biên của file ảnh. Tuy nhiên, ban có thể đánh dấu vào hộp kiểm Preview để xem trước những thay đổi.
Bởi vì chúng ta kích hoạt lệnh Quick Mask trước khi dùn lệnh Gaussian Blur, cho nên hiệu ứng chỉ áp dụng cho phần Mask
Bây giờ bạn hãy kéo thanh trượt Radius lên trong khoảng từ 10-20 pixel và quan sát Quick Mask
Chọn Ok để đóng hộp thoại Gaussian Blur lại.
Nhấn phím Q để thoát khỏi Quick Mask Mode.
Thiết lập vùng lựa chọn, và tô với màu trắng. (Fill = Tô; bạn còn nhớ lệnh Fill không? nếu nền trước là màu trắng thì nhấn Altl-Backspace-Del, còn nếu nền sau là trắng thì Ctrl-Backspace-Del)
Sau khi làm xong bạn có thể nghĩ sao phải rắc rối thế, vì lệnh Feather cũng cho kết quả tương tự mà còn nhanh hơn nhiều. Nhưng lệnh Quick Mask hữu dụng ở chỗ bạn có thể xem trước hiệu ứng Blur sẽ tác động đến file ảnh như thế nào trước khi quyết định thiết lập.
Sau đây là một số tuỳ biến của lệnh Quick Mask
Nếu bạn nháy kép vào nút Quick Mask trong hộp Tool Box bạn có thể thay đổi tuỳ biến của nó.
Nếu bạn muốn thay đổi màu của Mask bạn có thể thay đổi nó ở đây. Nếu màu mặc định không thích hợp với file ảnh của bạn, ví dụ như là trùng màu, bạn có thể nháy vào ô màu và đổi màu cho nó. Cuối cùng bạn có thể điều chình Opacity của nó.
Một số mẹo nhỏ về Quick Mask Quay lại file ảnh của bạn nếu Quick Mask vẫn còn hiển thị thì ở Layer Palette thì chuyển nó sang chế độ Channels (nếu không hiển thị Quick Mask bạn phải tạo ra một vùng Quick Mask như hướng dẫn ở trên).
Khi bạn ở chế độ Channels, do mặc định nó sẽ hiện thị dưới dạng màu xám do 3 màu cơ bản là: đỏ, xanh lá cây và xanh.
Bạn sẽ thấy ở channel thứ 5 trong Channel Palette có tên là Quick Mask. Quick Mask thực chất là một Alpha Channel tạm thời. Alpha channel là một vùng lựa chọn đã được lưu lại. Bất cứ thay đổi nào trong Quick Mask mode đều có thể được thể hiện trong Alpha Channel và ngược lại. Một điều khác biệt duy nhất là Alpha Channel sẽ trở thành một phần của file ảnh của bạn và Quick Mask sẽ bị mất ngay sau khi bạn thoát khỏi Quick Mask mode và bỏ chọn.
Bất cứ sự thay đổi nào mà có thể áp dụng cho file ảnh trắng đen đều có thể được áp dụng cho Quick Mask hoặc Alpha Channel. Bạn có thể vẽ vào nó, áp dụng đường cong và những mức độ điều chỉnh, thậm chí sử dụng những công cụ lựa chọn khác với Quick Mask Mode. Chúng ta đã sử dụng một số lệnh Filter, và sau này bạn sẽ thấy có rất nhiều hiệu ứng trong Filter có thể được sử dụng trong Quick Mask để tạo ra những hiệu ứng hấp dẫn. Lệnh thiết lập Quick Mask là Ctrl-I
Bạn có thể nhận thấy rằng khi bạn bật chế độ Quick Mask, nền trước và nền sau sẽ tự động chuyển thành màu mặc định là trắng và đen (đừng lo! những màu mà bạn chọn trước đây vẫn còn đó khi bạn thoát khỏi Quick Mask mode). Lý do của việc này là Mask thực tế là sự thể hiện dưới dạng trắng đen của vùng lựa chọn. Khi bạn quan sát Quick Mask trong Channel Palette, vùng màu đen thể hiện những gì mà nó hoàn toàn bị che phủ và vùng màu trắng thể hiện chỗ đó không được che phủ (đây sẽ là vùng được chọn khi bạn thoát khỏi Quick Mask). Dĩ nhiên bạn cũng có thể chọn từng phần một và nó sẽ được thể hiện bởi một màu xám. Khi bạn vẽ trên chế độ Mask, màu Đen sẽ xoá Mask và màu Trắng thì thêm vào Mask.
Không có gì bằng thực hành, cho nên ví dụ sau đây sẽ thể hiện rõ hơn.
Mở một file ảnh
Nhấn phím Q để bật Quick Mask Mode, và sau đó nhấn tổ hợp phím Alt-Backspace-Del để Fill với màu đen.
Vào Filter > Render > Clouds
Quan sát hình nhỏ trong Channel Palette và bạn sẽ thấy nó được tô bởi một màu xám
Chọn con mắt nhỏ bên cạnh RGB channel ở trên cùng của Palette và bạn sẽ thấy Quick Mask là màu xám. Chọn lại con mắt để quay về chế độ ban đầu.
Thoát khỏi chế độ Quick mask. Vùng lựa chọn Selection Marquee chỉ là một đường chấm chấm chẳng nói cho bạn biết điều gì!
Nhấn tổ hợp phím Alt-Backspace-Del (hoặc Ctrl-Backspace-Del, phụ thuộc vào nền trước và sau của bạn) để tô vùng đó với màu trắng và file ảnh của bạn sẽ có một giao diện "um khói". Vùng tối nhất chỉ cho bạn thấy những thay đổi lớn nhất và vùng sáng hơn là thay đổi ít hơn.
Nếu bạn thích làm việc với Quick Mask bằng cách sử dụng Selection Tool, bạn có thể Duplicate ở trong Select Menu bằng cách chọn Quick Mask Mode và sử dụng những Filter và lệnh khác của PTS. Sau đây là Quick Mask tương đương với một số tuỳ biến trong Select Menu.
Expand có thể được tạo bởi Filter > Other > Minimum
Contrast được tạo bởi Filter > Other > Maximum
Feather được tạo bởi Filter > Blur > Gaussian Blur (thử với Motion Blur hoặc Radial Blur để có những hiệu ứng khác nhau)
Invert được tạo bởi Image > Adjust > Invert hoặc Ctrl - I
Border (đường biên) được tạo bởi Filter > Sketch > Photocopy. (Thử với thanh trượt)
Sau khi thiết lập Select > Border, bạn có thể đổi sang Quick Mask và sử dụng Image > Adjust > Level để tạo đường biên thật sắc nét. Bạn có thể dùng lệnh này để biến những đường biên bị Feathered thành đường biên sắc nét.
Và dĩ nhiên bạn có thể tạo những vùng lựa chọn "tự do" bằng cách sử dụng công cụ Painting trong Quick Mask Mode
|Quay về đầu trang|
Source: Bá tước Monte Cristo Bantayden.com | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun Jun 08, 2008 2:25 pm | |
| 7. Alpha Channel và Channel Palette.
Bất cứ lúc nào bạn muốn sử dụng lại một vùng lựa chọn, bạn nên lưu nó lại ở Alpha Channel. Để làm điều này, bạn tạo một vùng lựa chọn, chọn Select > Save Selection và một hộp thoại sẽ xuất hiện
Với chế độ mặc định vùng lựa chọn sẽ được lưu lại với tài liệu hiện thời, nhưng bạn có thể kéo thanh cuộn để tạo một tài liệu mới từ vùng lựa chọn. Trong hầu hết các trường hợp bạn sẽ lưu vùng lựa chọn vào tài liệu hiẹn thời. Trong ô Name bạn có thể đặt tên cho vùng lựa chọn để sau này khi bạn muốn Reload còn nhớ được "cái mặt" của nó
Bạn cũng có thể thêm, bớt hoặc giao nhau với vùng lựa chọn với một Alpha Channel được mở từ trước. Hoặc bạn cũng có thể tạo một channel mới.
Một file ảnh có thể có tối đa là 24 channels, bao gồm tất cả các kênh màu. Những kênh Alpha này được lưu lại khi bạn lưu hoặc đóng hoặc mở file ảnh, nhưng chỉ khi file ảnh được save dưới định dạng mà nó hỗ trợ. Những định dạng này bao gồm những định dạng của PTS như PSD, PDF, PICT, TIFF và RAW.
Vùng lựa chọn được lưu lại xuất hiện ở Channel Palette. Để load vùng lưu lại này bạn vào Select > Load Selection. Nếu tài liệu của bạn bao gồm hơn một Alpha Channels bạn phải chọn file mà bạn muốn từ menu thả xuống. Bạn có thể thiết lập vùng lưạ chọn khi bạn Load nó. Nếu bạn đã có một vùng lựa chọn bạn có thể dùng tuỳ biến Operation để thêm, bớt hoặc giao nhau.
Bạn cũng có thể làm việc với vùng lựa chọn được lưu lại thông qua Channel Palette. Bạn hãy lưu lại một số vùng lựa chọn để bạn có thể theo dõi khi chúng ta bàn về Channel Palette. Để xem channel trong chế độ hiển thị trắng đen, nháy vào "channel" trên Channel Palette. Để xem vùng lựa chọn xuyên qua một file ảnh đang được thể hiện, nháy vào con mắt bên cạnh RGB và con mắt bên cạnh hình nhỏ của channel mà bạn muốn nhìn qua.
Khi một channel được chọn trong Channel Palette, bất cứ những thao tác nào của bạn sẽ chỉ được thể hiện ở Channel, tương tự như khi bạn trong Quick Mask mode. Nháy đúp vào Channel để mở tuỳ biến của nó và nó cho phép bạn đặt lại tên một channel. Ở bên phía ngoài cùng bên phải của hình nhỏ, bạn sẽ thấy lệnh gõ tắt để chọn một channel cụ thể. Bạn nên nhớ lệnh gõ tắt Ctrl-~ để chọn RGB.
Bạn cũng sẽ thây một dãy nút ở dưới cùng của Channel Palette. Những nút này cho phép bạn load một channel như là vùng lựa chọn, lưu một vùng lựa chọn như là một channel, tạo một channel trống, và xoá chaannel. Nếu bạn muốn hộp thoại xuất hiện để bạn đặt tên cho vùng lựa chọn khi bạn sử dụng chế độ nút để lưu vùng lựa chọn, giữ phím Alt khi bạn muốn nháy vào nút. Để tạo ra một Alpha channel mới dựa trên một channel đã có, kéo bất cứ channel nào vào nút "create new channel". Một nhân bản của channel đó sẽ xuất hiện mà bạn có thể sửa chữa. Giữ phím Alt để mở hộp thoại. Để xoa một channel, kéo và thả nó vào nút có biểu tượng thùng rác.
[Quay về đầu trang]
8. Thực hành với Quick Mask và Alpha Channel
Sau đây là một vài bài thực hành để giúp bạn hiểu rõ thêm về Quick Mask mode và Alpha Channels.
Bài 1: Rounded Rectangle - Hình vuông được làm tròn các góc
Mở một file mới 100x200 Pixel
Tạo một vùng lựa chọn bằng công cụ Rectangular Selection
Bật Quick Mask mode (Q)
Filter > Blur Gaussian Blur
10 pixel radius
Image > Adjust > Levels
Kéo thanh trượt trắng và đen về phía giữa như hình
Roài! một vùng lựa chọn được làm tròn góc
Bài 2: Tạo một hình mờ dần
Mở một file ảnh
Bật chế độ Quick Mask Mode
Chọn Linear Gradient tool
Thiết lập Gradient option là Foreground to Background
Nhấp và kéo để tô vùng Mask với Gradient (giữ phím Shift)
Thoát khỏi Quick Mask Mode. (Chú ý Marquee Selection sẽ xuất hiện bởi vì nếu file hình được chọn một nửa. Điều này là do Marquee chỉ xuất hiện khi có hơn 50% pixel được chọn).
Nhấn phím D để định dạng lại màu mặc định
Nhấn tổ hợp phím Ctrl-Spacebar-Del hoặc Backspace.
Bài 3: Kết hợp giữa Selection tool và Quick Mask để lựa chọn nhanh hơn.
Lựu lại hình bông hoa vào máy hình này.
Sử dụng Magic Wand với Tolerance khoảng 100 và nháy chuột vào vùng cách hoa màu vàng.
Hầu hết phần cánh hoa sẽ được lựa chọn. Nếu bạn thích có thể chọn Select > Similar để chọn thêm phần cánh hoa.
Bật Quick Mask mode
Tạo vùng lựa chọn ở phần nhuỵ hoa sau đó loại bỏ Mask bằng cách tô cho nó màu trắng. Backspace hoặc Ctrl-Spacebar-Del
Thoát khỏi Quick Mask Mode
Ctrl-Shift-I
Tô tiếp với màu trắng.
Bài 4: Tạo đường viền
Mở một file ảnh.
Tạo vùng lựa chọn Rectangular nhỏ hơn toàn bộ ảnh một chút kể từ đường biên.
Bật Quick Mask Mode
Filter > Brush Strocke > Spatter
Điều chỉnh cửa sổ xem trước để bạn nhìn thấy đường biên của Mask và điều chỉnh thanh trượt đến khi bạn thấy hài lòng với hiệu ứng. Tôi dùng Radius là 20 và Smoothness là 4.
Ctrl-I (đảo nghịch Quick Mask)
Thoát khỏi Quick Mask
Tô với màu trắng
Hãy thử tương tự với những hiệu ứng sau đây.
Filter > Distort > Ripple
Filter > Distort > Glass
Filter > Distort > Ocean Ripple
Filter > Artistic > Underpainting
Filter > Blur > Gaussian Blur (10-20 pixels) followed by Filter > Pixelate > Color Halftone
Filter > Blur > Gaussian Blur (10-20 pixels) followed by Filter > Pixelate > Crystallize
Filter > Blur > Gaussian Blur (10-20 pixels) followed by Filter > Pixelate > Crystallize
Filter > Blur > Gaussian Blur (10-20 pixels) followed by Filter > Pixelate > Mosaic (10)
Filter > Sketch > Torn Edges
Filter > Sketch > Water Paper
Filter > Stylize > Diffuse (apply multiple times)
Filter > Blur > Gaussian Blur (10-20 pixels) followed by Image > Adjust > Poserize (5-10) Source: Bá tước Monte Crito Bantayden.com | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun Jun 08, 2008 2:27 pm | |
| Chương 6: Layer và Blend Mode ------------------------------------------ 1. Khái quát về Layer
Cho đến lúc này mọi thứ chúng ta thực hành đều được thao tác trên Background Layer. Có thể bạn nhận ra rằng làm việc với Background layer rất không thú vị. Bất cứ thao tác nào bạn tiến hành trên Background Layer đều thay đổi đơn vị Pixel của Background và cách duy nhất để Undo là sử dụng History Palette. Khi bạn biết thêm về layer trong PTS, một kỷ nguyên mới của PTS đang mở ra vơi bạn. Vậy! Layer là cái gì?
Bạn có thể tưởng tượng rằng mỗi Layer trong một tài liệu như là một tấm phim trong suốt. Khi bạn vẽ lên bất kỳ một tấm phim nào, bạn vẫn có thể nhìn xuyên qua những vùng chưa được vẽ của tấm phim đó. Khi bạn chồng các tấm phim lên nhau, vùng được vẽ của tấm phim thấp hơn vẫn được thể hiện xuyên qua vùng trong suốt của tấm phim ở trên nó. Trong PTS, Layer trong suốt được thể hiện dưới dạng các ô kẻ ca rô trắng và xám (trừ khi file ảnh của bạn chứa Background). Vùng kẻ carô đó không phải là một phần của văn bản, nó chỉ có tác dụng chỉ cho bạn biết đó là vùng trong suốt.
Hình bên thể hiện 3 layer chồng lên nhau. Hình ngôi sao, con bướm và con cá là nội dung của mỗi layer. Bạn có thể nhìn thấy bằng trực giác rằng con cá ở dưới cùng, con bướm ở giữa và ngôi sao ở trên cùng. PTS chỉ xử lý riêng biệt từng layer, do vậy bất cứ một thao tác trên layer nào, chỉ có tác dụng trên layer đó.
Khi bạn mở một file ảnh kỹ thuật số trong PTS, thông thường file ảnh đó được mở với chỉ một Background Layer. Background là một layer đặc biệt, nó không trong suốt và luôn nằm ở dưới cùng của các layer khác. Khi bạn chồng một layer khác lên trên layer background, layer background sẽ thể hiện những vùng chưa được bao phủ của layer nằm trên nó. Layer background có thể được chuyển thành một layer bình thường bằng cách nháy đúp vào tên của nó trong Layer Palette. Bạn có thể đặt tên mới cho nó hoặc dùng tên mặc định bởi PTS. Đặt tên cho một layer là một thói quen nên được học, bởi vì nó giúp bạn xác định được các layer trong Layer Palette dễ dàng hơn.
Trong PTS, bạn sử dụng Layer Palette để quản lý những layer trong tài liệu. Bên phải là hình minh hoạ của Layer Palette cho ví dụ ở trên.
Bạn sẽ sớm nhận ra rằng Layer Palette là một trong những thành phần được dùng nhiều nhất trong giao diện của PTS. Thực tế, bạn có thể sắp xếp lại Layer Palette của bạn để tạo ra thêm khoảng trông cho nó. Cá nhân tôi, tôi luôn thu nhỏ những Palette ít được dùng xuống cuối cùng của màn hình, để lại chỗ trống cho History Palette và Layer Palette.
Layer Palette hiển thị thứ tự của các layer trong tài liệu của bạn dưới dạng những hình thu nhỏ để giúp bạn xác định những layer dễ dàng hơn. Như đã nói từ trước, bạn chỉ có thể thao tác từng layer một. Layer đang được kích hoạt sẽ có màu xanh như hình dưới.
Hơn nữa, layer đang kích hoạt sẽ có thêm một biểu tượng "paintbrush" ở bên trái của hình thu nhỏ. Nháy kép vào layer trong Layer Palette cho phép bạn truy nhập Layer Style. Bạn có thể đổi tên cho Layer bằng cách nháy kép vào layer đó.
Bên cạnh Paintbrush của mỗi layer là một hình con mắt nhỏ . Nhấp vào biểu tượng này cho phép bạn tắt hoặc mở layer, bằng cách này bạn có thể tạm thời ẩn một layer đi nếu bạn muốn. Dấu một layer cũng không chế không cho in layer đó. Bạn có thể dễ dàng ẩn hoặc hiện vài layer trong một hàng bằng cách nháy vào những biểu tượng con mắt của từng layer. Để dấu tất cả các layer chỉ trừ một, bạn có thể giữ phím Alt và nhấp chuột vào con mắt của layer mà bạn muốn giữ.
Mặc dù bạn chỉ có thể thao tác trên từng layer một, nhưng có một số cách mà có thể thao tác trên một vài layer. Ví dụ, di chuyển layer, copy layer giữa các tài liệu và căn chỉnh layer. Để thao tác những lệnh này, bạn cần phải link các layer mà bạn muốn làm việc với.
Để link vài layer với một layer đang được kích hoạt, bạn phải nhấp chuột vào ô vuông thư hai (giữa biểu tượng con mắt và hình thu nhỏ). Một biểu tượng link sẽ xuất hiện trong ô vuông đó để cho thấy rằng layer đó được link. Cũng như biểu tượng con mắt, bạn có thể nhấp chuột vào từng ô của cột để link. Để bỏ link một vài layer chỉ với một cú nhấp chuột, bạn có thể giữ phím Alt và click vào biểu tượng Paintbrush để kích hoạt layer đó. Chúng ta sẽ học cách di chuyển, copy và căn chỉnh layer trong những bài học sau.
Bạn hãy nhìn vào hàng nút ở dưới cùng của Layer Palette. Những nút này (từ trái qua) làm việc với hiệu ứng layer (layer effect), thêm vào Layer Mask, nhóm các layer vào một tập layer (layer set), tạo và điều chỉnh layer, tạo một layer thông thường, và xoá layer. Bây giờ chúng ta chỉ bạn đến hai nút cuối cùng.
Nếu bạn nhấp chuột vào nút Delete Layer, bạn sẽ được hỏi để xác nhận rằng bạn thực sự muốn xoá nó. Nếu bạn muốn xoá một layer mà không cần xác nhận, nhấp và kéo layer đó trong Layer Palette và thả nó vào biểu tượng thùng rác.
Khi bạn nhấp vào nút New Layer, một layer mới được tạo ra nằm trên layer đang được kích hoạt. Layer mới sẽ được đặt tên theo mặc định là Layer 1, Layer 2 v.v.. Nếu bạn muốn đặt tên cho layer khi bạn tao ra nó, giữ phím Alt khi bạn nhấn vào biểu tượng New Layer. Để tạo ra một layer nằm ở dưới layer đang được kích hoạt, giữ phím Ctrl và nhấp vào nút New Layer. Nếu bạn muốn cùng một lúc tạo một layer mới nằm dưới layer đang được kích hoạt và đặt tên cho nó, kết hợp Ctrl-Alt và nhấp vào nút tạo layer.
Để nhanh chóng tạo ra một bản sao của một layer, kéo layer đó từ Layer Paletee và thả nó vào nút New Layer. Layer mới được tạo ra sẽ có tên giống như Layer gốc, nhưng có thêm chữ "copy". Nếu bạn muốn cùng một lúc sao chép và đặt tên cho nó thì giữ phím Alt khi kéo và thả nó vào nút New Layer.
Để thay đổi vị trí của các layer, bạn chỉ việc nhấp và kéo nó đến vị trí mà mình muốn trong Layer Palette. Một ô vuông sẽ xuất hiện cho bạn biết nơi nào layer sẽ được đặt khi bạn kéo chuột. Xem hình.
Bây giờ chúng ta hãy khám phá tuỳ biến của Layer Palette ở trên cùng của nó.
Để bắt đầu việc thực hành bạn nên lưu ảnh này lại để thực tập.
Với ô Blend Mode có rất nhiều tính năng, nhưng nếu bạn là một người thích tìm hiểu, thì tôi để lại phần đó cho bạn tìm hiểu. Vì nói ra cũng rất trừu tượng chi bằng bạn mở một file ảnh và áp dụng từng cái một để thấy hiệu ứng của nó. Bên cạnh ô Blend Mode là ô điều khiển chế độ Opacity của layer. 100% opacity có nghĩa là layer đó không có tính trong suốt. Trong ví dụ bên trái, tôi thiết lập Opacity cho ngôi sao là 50%. Chú ý đến cách mà những layer ở dưới nó được nhìn xuyên qua. Khi bạn kéo thanh trượt về bên trái, layer đó sẽ mờ dần cho đến khi thanh trượt về vị trí tận cùng bạn sẽ thấy layer đó biến mất hoàn toàn.
Bạn có thể điều chỉnh mức độ Opacity bằng thanh trượt hoặc điền giá trị số bằng bàn phím, ví dụ 75 = 75% Opacity. Chú ý rằng thanh trượt được ẩn ở mũi tên cạnh giá trị số, nháy vào đó một lần thanh trượt sẽ xuất hiên.
Thiết lập chế độ Opacity là kiểm soát độ trong suốt của layer, tuy nhiên, bạn có thể có những mức độ trong suốt khác nhau trên cùng một layer, thậm chí ngay cả khi Layer đó được cài đặt ở mức 100% Opacity. Bạn làm bằng cách sử dụng công cụ Painting tool, Eraser, Layer Mask v.v.. Có rất nhiều công cụ Painting Tool trong PTS có riếng mức độ Opacity độc lập hoàn toàn với Opacity của layer. Hy vọng là những phần trên không làm các bạn rối trí, vì phần tối chúng ta bàn đến công dụng của Transparency Lock và nó rất dễ gây nhầm lẫn.
Bên dưới Blend Mode và Opacity bạn có một loạt các hộp kiểm để khoá nhiều tính năng thao tác.Từ trái qua phải những nút khoá này có công dụng sau:
transparency, image pixels, position, and all of the above.
Bất cứ khi nào mộ trong các khoá này được kích hoạt, bạn sẽ thấy một biểu tượng cái khoá nhỏ xuất hiện bên phải của layer trong Layer Palette. Khi tất cả các khoá được kíck hoạt, biểu tượng đó sẽ chuyển sang "đen xì". Nó sẽ không cho phép bạn thay đổi gì trừ phi Background layer phải được "nâng cấp" thành Layer.
Transparency Lock cho phép bạn thao tác trên một layer nhưng không cho phép bạn thay đổi mức độ trong suốt của layer đó. Cách tốt nhất để giải thích là bằng ví dụ.
Trong file ảnh mà chúng ta đang làm việc, thiết lập mức độ Opacity cho một layer bất kỳ là 50%.
Hãy lấy một màu (tôi dùng màu xanh lá cây) và Fill layer đó với màu đó.
kết quả là toàn bộ layer được tô màu và cho layer đó một mức độ Opacity là 50% xanh trong ví dụ của tôi.
Bây giờ Undo thay đổi đó và đánh dấu vào hộp kiểm Transparency lock. Tô layer đó với màu của bạn một lần nữa. Lần này chỉ có một layer được tô màu, và layer này vẫn giữ nguyên giá trị Transparency mà bạn đã tô cho nó là 50%.
Transparency lock tác động đến bất cứ loại thao tác nào bạn làm trên một layer, bao gồm Painting, Filling và Filter. Để tự thực hành bạn hãy thử hiệu ứng Gausian Blur, và không đánh dấu hộp kiểm Transparency Lock. Sau đó thì Undo và làm lại lần nữa với hộp kiểm Transparency được đánh dấu.
Transparency Lock thực chất không khó để hiểu, nhưng nó rất dễ gây nhầm lân nếu bạn chọn nó tại một lúc nào đó và quên là hộp kiểm đang được đánh dấu. Bất cứ khi nào bạn thấy một công cụ nào đó không có những hiệu ứng như bình thường, bạn nên kiểm tra xem nó hoặc bất cứ những khoá khác đang được kích hoạt hay không trước khi .... cà cuống!
Image Pixel Lock vô hiệu hoàn toàn công cụ Painting tool vào layer đó. Bạn vẫn có thể di chuyển và Transform nội dung của layer, điều chỉnh mức Opacity, và thay đổi Blend mode nhưng bạn không thể vẽ trực tiếp lên nó.
Position Lock thì bạn tự khám phá lấy. Bạn không thể di chuyển hoặc Transform một layer khi nó bị Position Lock, nhưng bạn vẫn có thể vẽ, áp dụng Layer Effect và thay đổi Blend Mode
The position lock is self explanatory. You can't move or transform a layer that has its position locked, but you can still paint on it, apply layer effects, and change blend modes.
Và như bạn đoán, cái cuối cùng tương đương với tất cả những cái trên khi chúng đều được chọn.
Những PTS phiên bản trước 6.0 đều có giới hạn là 100 Layer, nhưng từ PTS 6.0 trở lên giới hạn đó không còn nữa, thực chất bạn có thể có tới 8000 layer (bao gồm layer sets và layer effect).
Layer chỉ được bảo quản khi bạn lưu file ảnh dưới định dạng của PTS là PSD. Khi làm việc với những file ảnh chứa nhiều layer, tốt hơn hết là bạn nên lưu 1 bản với định dạng của PTS để sau này còn sửa chữa. Để giảm dung lượng của một file và để cho nó tương thích với các trình xử lý ảnh khác bạn luôn luôn cần lưu nó lại với một định dạng khác tuỳ theo mục đích sử dụng.
Trong PTS 6.0, bạn có thể dùng Save As và file ảnh sẽ bị tự động Flatten khi bạn chọn một định dạng khác với định dạng của PSD hoặc PDF. Một thông báo sẽ xuất hiện để báo cho bạn biết một vài dữ liệu của bức ảnh sẽ mất nếu một định dạng nào đó không hỗ trợ layer.
Hiện nay có một số chương trình hỗ trợ định dạng của PTS là PSD, nhưng không phải hoàn toàn cho nên trước khi mở định dạng của PTS trong một ứng dụng khác, bạn nên đơn giản hoá các layer càng nhiều càng tốt. Bạn có thể Flatten file ảnh bằng tay hoặc dùng lệnh Merge. Chúng ta sẽ học về lệnh này trong những bài học sau.
Bạn nên chú ý rằng chế độ màu của một file ảnh có thể tác động đến sự tương tác giữa các layer. Vì lý do này, bất cứ khi nào bạn biến định dạng PTS từ một chế độ màu này qua chế độ khác, bạn sẽ được thông báo là phải Flatten file ảnh trước. Bạn có thể tiếp tục mà không cần Flatten nhưng chú ý rằng kết quả sẽ thay đổi rất nhiều phụ thuộc vào layer effect gì và Blending Mode nào mà bạn đã sử dụng. Dĩ nhiên nếu bạn không thích kết quả đó bạn có thể Undo những thay đổi và Flatten file ảnh trước khi thay đổi chế độ một lần nữa.
|Quay về đầu trang|
Source: Bá tước Monte Crito Bantayden.com | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun Jun 08, 2008 2:28 pm | |
| 2 Di chuyển, Copy và Transform layer.
Khi bạn đã bắt đầu làm việc với Layer, một công cụ trở nên rất quan trọng đó là Move Tool. Lệnh gõ tắt cho nó là V. Bạn có thể tạm thời chuyển sang chế độ di chuyển dù cho bất cứ công cụ nào đang được kích hoạt bằng cách nhấn phím Ctrl. Trường hợp ngoại lệ là Pen Tool, Hand Tool, Slice và Shape Tool trong PTS 6+
Move tool được dùng để di chuyển nội dung của Layer, nhưng nó cũng được sử dụng để chọn layer và copy layer. Như tất cả các công cụ chúng ta đã từng sử dụng, có một vài tổ hợp phím có thể thay đổi tính năng của Move Tool.
Giữ phím Shift xuống kết hợp với Move Tool sẽ giúp bạn di chuyển theo đường thẳng hoặc một góc 45 độ
Giữ phím Alt sẽ cùng một lúc copy một layer và di chuyển nó
Bạn có thể kết hợp hai phím Shift và Alt
Bạn có thể thao tác với nội dung của layer với lệnh Free Transform. Lệnh này làm việc cũng giống như nó làm việc với vùng lựa chọn. Khi bạn trong chế độ Free Transform, một vùng bao quanh sẽ xuất hiện xung quanh nội dung của layer và bạn có thể di chuyển, thay đổi tỉ lệ, xoay chuyển, "làm méo", "làm lệch" và lật ngược nội dung của layer bằng cách sử dụng kết hợp chuột và bàn phím. Khi layer được link, Transformation sẽ áp dụng cho tất cả các layer, dù cho chỉ có mỗi layer đang được kích hoạt có hộp bao quanh.
Khi bạn chọn Move tool, vùng tuỳ biến của Move tool xuất hiện trên Option Bar.
Bạn sẽ nhận ra một hộp kiểm cho phép ẩn hoặc hiện vùng bao quanh ở layer được kích hoạt. Nó tạo cho vùng lựa chọn tự động dễ dàng hơn vì bạn có thể nhìn thấy chính xác layer nào đang được kích hoạt, thậm chí khi Layer Palette của bạn bị ẩn. Nó cũng rất thuận tiện cho bạn để chuyển sang chế độ Free Transform, chỉ việc rê con trỏ đến một trong những điểm của hộp bao quanh và gọi lệnh Transformation. Khi bạn chuyển sang chế độ Free Transformation, bạn sẽ nhận thấy hộp bao quanh chuyển từ những đường chấm chấm thành màu đen, và thanh Option Bar cho phép bạn điền giá trị số vào để áp dụng Transformation. Để thiết lập Transformation và thoát khỏi Transformation, nháy đúp vào hộp bao quanh, nhấn phím Enter ở vùng bàn phím số (máy desktop) hoặc nhấn vào dấu ttiick ở Option Bar. Để thoát khỏi chế độ Free Transform mà không thiết lập Transform, nhấn Esc trên bàn phím hoặc dấu "X" trong Option bar.
Từ PTS 6+ bạn sẽ nhận ra một số nút được thêm vào trên Option Bar cho Move Tool. Những nút này sẽ là màu xám trừ khi bạn có hơn 2 layer link với nhau.
Nếu Move Tool được kích hoạt và bạn nháy chuột phải vào layer, bạn sẽ nhận được một menu hiện ra nó cho phép bạn chọn các layer tại điểm của con trỏ của bạn. Hãy thử với một file ảnh của bạn bằng cách nháy chuột phải vào bất cứ điểm nào của file ảnh. Dĩ nhiên điều này chỉ hữu dụng khi bạn đặt tên cho từng layer một cách logic và bạn cũng nên thành lập một thói quen đặt tên cho layer mỗi khi tạo một layer mới.
Sau đây là một số lệnh gõ tắt:
Alt-chuột phải chọn layer ở trên cùng ngay dưới con trỏ.
Giữ phím Alt và nhấn một trong hai phím [ và ] cho phép bạn di chuyển theo thứ tự từ trên xuống dưới của các layer. Dấu ngoặc trái [ di chuyển xuống, ] di chuyển lên.
Alt-shift-[ chọn layer cuối cùng
Alt-Shift-] chọn layer trên cùng.
Những lệnh này cũng có trong Layer > Arrange Submenu Move Tool cũng có thể được sử dụng để copy layer từ một tài liệu này sang một tài liệu khác bằng cách kéo và thả. Bạn chỉ việc kéo một layer từ một tài liệu này sang một tài liệu khác PTS sẽ tự động copy layer đó ở vị trí mà bạn thả chuột. Để copy một layer từ tài liệu này sang tài liệu khác và căn chỉnh ở giữa, giữ phím Shift trong khi bạn kéo và thả. Nhưng với một ngoại lệ: nếu hai tài liệu có cùng một vị trí như nhau, giữ phím Shift trong khi kéo layer PTS sẽ copy layer tại điểm mà khi nó ở tài liệu được copy. Ví dụ có 2 tài liệu A và B, tài liệu A chứa nội dung nghiêng về bên trái. Khi bạn kéo và thả nội dung từ A sang B và giữ phím Shift, nội dung của A sẽ thể hiện chính xác như khi nó ở A.
Chính vì lẽ đó mà có những mẹo nhỏ rất tiện dụng mà chúng ta chẳng bao giờ cần kích hoạt layer hoặc sử dụng Move Tool. Nếu bạn đang mở một hộp thoại tài liểu mới và bạn muốn tài liệu mới có kích thước giông như tài liệu đang được mở, bạn có thể vào Window > Document > New window, PTS sẽ tự động cho bạn một cửa sổ mới có kích thước chính xác với cửa sổ đang được mở. Mẹo này cũng có thể dùng được với Image Size và Canvas Size.
Quay lại với Layer và Move Tool bạn cũng có thể copy Layer giữa các tài liệu bằng cách kéo và thả chúng từ Layer Palette vào cửa sổ của tài liệu đang được mở. Tuy nhiên, nếu bạn muốn copy vài layer một lúc, bạn phải link những layer đó lại và kéo và thả chúng từ một cửa sổ của tài liệu này và thả chúng vào tài liệu khác bằng công cụ Move Tool. Bạn không thể kéo và thả nhưng layer được liên kết từ Layer Palette.
Đó chỉ là một trong những trường hợp khi bạn muốn liên kết các layer. Có những lúc bạn muốn liên kết một vài layer khi bạn muốn Merge chúng với nhau. Điều này có thể được thực hiện bằng lệnh Merge Linked trong Layer menu. Lệnh tắt của Merge layer là Ctrl-E
chú ý Version 6.0+
Trong PTS 6 có thêm một tính năng mới được gọi là Layer Set. Với Layer Set bạn có thể nhóm các layer lại với nhau để tránh sự lộn xộn trong Layer Palette và có thể thao tác một vài layer cùng một lúc. Nó có tác dụng tương tự như liên kết các Layer, nhưng có nhiều tính năng hơn bởi vì bạn có thể nhân đôi Layer Set.
Nếu bạn muốn liên kết các layer khi bạn cần căn chỉnh và phân chia chúng. Điều này cho phép bạn điều chỉnh vị trí của layer tương quan với những layer khác.
|Quay về đầu trang|
Tôi muốn giới giới thiệu ngắn gọn với bạn một vài điểm đặc trưng tiên tiến khác của layer. Tôi sẽ không đi quá sâu và vấn đề, nhưng tôi muốn cùng bạn thực hành với nó, bởi vì sau này chúng ta sẽ sử dụng đặc điểm này trong những bài học sau.
Layer > Group with Previous (nhóm với layer trước) Câu lệnh Group with Previous ở dưới Layer Menu cho phép bạn sử dụng một layer này như là mạng che (Mask) cho layer khác. Khi bạn định nghĩa một nhóm cắt, layer ở thấp nhất của nhóm sẽ trở thành mạng che cho những layer khác trong nhóm.
Một ứng dụng quan trọng của việc nhóm các layer là khi bạn muốn viết chữ vào một file ảnh hoặc tô màu. Bạn có thể lựa chọn text và dán vào nó, nhưng khi dòng Text đó không thể sửa chữa được nữa. Với bài tập này, tôi đã tạo ra một tài liệu với nền là màu trắng, Rainbow Gradient layer, một layer text ẩn và một layer text. Lưu file này lại rồi mở nó ra trong PTS. Bạn sẽ Fill dòng text với công cụ Gradient và áp dụng Texture. (Khi bạn mở file này trong PTS 6, bạn có thể nhận được một thông báo là một vài layer cần update. Chọn Update nếu bạn nhận được thông báo)
Do layer ở tận cùng luôn là layer bị cắt, đầu tiên bạn cần chuyển layer text xuống dưới Gradient và Texture Layer.
Sử dụng Layer Palette để kéo những layer trong trật tự từ trên xuống dưới:
Texture
Rainbow
Photoshop
Background
Tiếp theo kích hoạt Rainbow Gradient Layer, chọn Layer > Group with Previous hoặc Ctrl - G
Dòng chữ được tô với Gradient
Kích hoạt Texture Layer bằng cách kích chuột vào tên của nó
Nhóm layer này bằng lệnh Ctrl - G, (một cách nữa để nhóm 2 layer là nhấn phím Alt rồi kích chuột trái vào khoảng biên giữa của hai layer trong Layer Palette)
Tại thời điểm này layer Texture bị chắn bởi Gradient cho nên nó là màu trắng đen. Chúng ta sẽ sử dụng Layer Blending Mode để đổi layer Texture thành màu cầu vồng. Đổ Blending Mode của Texture Layer thành Luminosity.
Bây giờ bạn đã có dòng chữ được áp dụng Texture, dòng chữ màu vẫn có thể chỉnh sửa được.
Bạn đã bắt đầu thấy sự kỳ diệu của layer trong PTS chưa? cứ bình tĩnh, đây chỉ mới là điểm khởi đầu.
Layer Masks Layer masks rất giống với Quick Mask hoặc Alpha Channel, nhưng chúng chỉ được liên kết với một layer đơn lẻ. Chúng có thể được chỉnh sửa và được lưu lại với tài liệu của bạn khi bạn lưu nó trong định dạng của PTS. Layer Mask có thể bắt đầu từ lúc mở tài liệ hoặc áp dụng từ một vùng đã được lựa clieej. Layer Mask rất rất hữu dụng bởi vì nó cho phép bạn áp dụng tính trong suốt lên một layer mà không phá huỷ mãi mãi layer. Miễn là Layer Mask được liên kết với một layer, tỉ lệ phân chia của layer mask có thể được ẩn hoặc hiện mà không ảnh hưởng gì tới layer bạn đầu. Layer mask là công cụ lý tưởng để đê tạo những bức ảnh hỗn hợp và dựng phim
Adjustment Layers Adjustment layers là dạng layer đặc biệt, chúng được dùng để điều chỉnh những layer nằm ở dưới. Hầu hết những thứ ở dưới Image Adjust menu cũng có thể được áp dụng bằng cách sử dụng Adjustment Layer. Sử dụng Adjustment Layer có một lợi ích khác biệt. Bởi vì .... vì nó có thể điều chỉnh được (Adjustable). Nói cách khác, nếu bạn áp dụng Hue/Saturation Adjustment vào một file ảnh, và sau đó bạn nghĩ lại nhưng thay đổi có vẻ nhiều quá, bạn có thể nháy kép vào Adjustment Layer và quay lại với chế độ cài đặt. Thêm vào nữa, Adjustment layer được tạo ra trên layer mask, cho nên bạn có thể xoá Adjustment từ vùng được lựa chọn bằng cách Paint vào vùng Adjustment layer với màu đen. Vẽ vào Adjustment layer với màu xám cho phép bạn làm phai nhạt adjustment.
Layer Effects Layer effects là những hiệu ứng đặc biệt mà có thể áp dụng vào layer. Một điều tuyệt vời của layer effect là chúng hoàn toàn có thể chỉnh sửa và rất linh động. Bạn có thể thay đổi nội dung của một layer và layer effect sẽ tự động thay đổi vì nội dung của layer đó thay đổi. Bạn cũng có thể điều chỉnh rất nhiều đặc điểm của layer effect. Layer effect được nhóm trong một hộp thoại chung gọi là "Layer Styles", hãy tự tìm hiểu nó xem có bao nhiêu tính năng?
Photoshop 6 Fill Layers Fill layers là một tính năng duy nhất của PTS 6+. Fill Layer có thể chứa một màu đặc, Gradient hoặc Pattern. Khi bạn thiết kế một layer như là một fill layer, vùng được fill có thể được thay đổi dễ dàng bằng cách nhấp vào biểu tượng của nó trên layer Palette. Fill layer cũng có Layer mask đính kèm, cho nên fill layer không thể bị tẩy xoa, chỉ bằng cách vẽ lên layer mask Source: Bá tước Monte Crito Bantayden.com | |
| | | cute_hedgehog Thần Sáng - Nhà Ravenclaw
Tổng số bài gửi : 330 Age : 28 Đến từ : Paradise Registration date : 23/03/2008
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer Sun Jun 08, 2008 2:29 pm | |
| Chương 7: Type Tool ------------------------------------- Nội dung của trang này thuộc bản quyền của © Bá tước Monte Cristo và bantayden.com. Những bài viết trong này có thể được in ra để dùng với mục đích cá nhân. Nếu bạn muốn copy hoặc dùng lại trong trang web của bạn làm ơn liên lạc với tôi hoặc ít nhất phải trích dẫn lại nguồn là: Bá tước Monte Cristo và bantayden.com
1. Khái quát về công cụ Type
Mẹo về Font: Nếu bạn down được một Font chữ nào đó mà bạn chỉ muốn dùng ở PTS thay vì phải gắn nó vào Font Folder trong hệ điều hành bạn có thể install Font đó vào Adobe . Trong Window system, Abode font fold được đặt ở: Program Files\common\Files\Adobe\Fonts. Những Font chữ được install vào phần này sẽ có thể được hiển thị trong hầu hết những phiên bản gần đây, nhưng không thể hiển thị ở những ứng dụng khác. Sẽ rất thuận tiện nếu bạn tạo ra nhiều font hơn trong ứng dụng của bạn mà không phải load font đó vào hệ điều hành.
Lệnh gõ tawt cho công cụ Type Tool là T. Trong PTS 6, hầu hết tuỳ biến của các công cụ đều hiển thị trên thanh Option Bar mỗi khi một công cụ nào đó được lựa chọn. Bạn sẽ nhận ra có 4 nút trên Option Bar.
Hai nút đầu tiên trong nhóm dùng để tạo một Type Layer mới, hoặc tạo một Type Mask. Hai nút còn lại trong nhóm thứ hai dùng để chọn để viết Text theo chiều ngang hoặc theo hàng dọc.
Để tạo ra một Type layer thông thường, bạn phải chọn công cụ Type Tool và để ý xem nút Type Tool có được ấn lõm xuống không? sau đó thì nháy chuột vào tài liệu và viết. Bạn có thể nhấp và kéo một hình vuông bằng công cụ Type Tool để tạo ra một cột Text. Điều này hữu dụng khi bạn muốn tạo một khổ chữ lớn. Trước khi bạn nhấp chuột vào tài liệu, nhìn vào biểu tượng con trỏ hình chữ I xuất hiện khi bạn di chuyển con trỏ vào trong vùng tài liệu. Chú ý một đường kẻ ngang giao nhau với biểu tượng I. Đường thẳng này chỉ ra vạch ranh giới của vùng chữ. Nó hữu dụng khi bạn cần căn chỉnh đường ranh giới của vùng chữ với một hình khác ở trong tài liệu cùa bạn. Tốt hơn hết là thực tập để biết rõ hơn. Bây giờ bạn hãy gõ một vài chữ bất kỳ và chúng ta sẽ xem xét tuỳ biến của Type Tool. Bạn có thể thiết lập tuỳ biến Type Tool thông qua Option Bar trước khi bạn gõ chữ, hoặc bạn có thể sử dụng Option Bar để chỉnh sửa chữ khi bạn đang trong Type Tool mode. Bạn có thể thay đổi định dạng của từng chữ hoặc từng từ bằng cách bôi đen nó và thay đổi theo ý bạn.
Hai hình dưới đây trong Option Bar, chắc tôi không cần phải giải thích cho các bạn chứ? bạn có thể tự tìm hiểu những tuỳ biến của nó. Rất dễ vì nó tương tự trong Word hoặc rất hình tượng.
Chỉ có nút cuối cùng là Character Palette. Chúng ta sẽ bàn đến Warp Text và Type Tool Palette sau.
Khi bạn đang trong chế độ Type Mode, bạn có thể giữ phím Ctrl và con trỏ sẽ biến thành Move Tool, nó cho phép bạn định vị lại dòng chữ mà không cần phải thoát khỏi Type Tool. Bạn cũng dễ thấy rằng khi bạn nhấn phím Enter se cho phép bạn chuyển xuống dòng mới.
Bạn có thể nhận vùng Type và thoát khỏi vùng Type bằng một trong 3 cách sau:
Nhấn phím Enter trong vùng phím số (Máy desktop)
Chọn một công cụ khác trong Tool Box
Chọn dấu Tick trong Option Bar
Để thoát khỏi Type Mode mà không thêm chữ bạn có thể nhấn phím Esc hoặc nhấn vào dấu "X" trên thanh Option Bar.
Một khi bạn đã gõ vài chữ vào tài liệu của bạn, bạn sẽ thấy một layer chứa chữ. Tất cả những Type Layer đều có chữ T ở trong hình nhỏ của Layer Palette. Nháy đúp vào chữ biểu tượng chữ T sẽ đưa bạn trở lại chế độ chỉnh sửa, và nó sẽ tự động lựa chọn để bạn thay đổi. Nếu bạn lựa chọn công cụ Type Tool và nhấp vào bất cứ chữ nào trong tài liệu, nó sẽ tự động kích hoạt tài liệu của bạn và tự lựa chọn chế độ Type Mode.
Type Layer có thể được di chuyển bằng công cụ Move Tool và thao tác với Free Transform mode. Không giống như những layer thông thường, khi bạn Transform Type Layer, dòng chữ vẫn duy trì Crisp và Sharp. Khi định dạng lại tỉ lện trong Free Transform mode, nhơ giữ phím Shift xuống rồi kéo ở góc để giữ tỉ lệ của vùng chữ được cân đối. Tất nhiên, bạn cũng có thể tạo cho Text của bạn cao hơn, rộng hơn bằng cách sử dụng Free Transform để làm "méo" nó.
Khi Type Layer được kích hoạt, bạn sẽ nhận thấy có thêm một vài tuỳ biến ở menu phụ của Type layer. xem hình.
Trong PTS 6+ khi bạn muốn vẽ trên chữ hoặc áp dụng Filter cho nó, chữ trước hết phải được chuyển thành Pixel. Thao tác này được gọi là Rasterizing hoặc Rendering chữ. Để Rasterize bạn phải nháy chuột phải vào tên của Type layer trong Layer Palette và chọn Rasterize Layer từ menu hiện ra. Bạn cũng có thể Rasterize Type bằng cách chọn Layer > Rasterize > Type. Khi bạn Raterize Type trong PTS, bạn sẽ không được chỉnh sửa chữ và tuỳ biến định dạng nữa. Cho nên trước khi bạn rendering một Type Layer bạn nên nhân đôi layer đó trước và ẩn layer chưa render đi. Như vậy khi bạn muốn thay đổi gì ở layer type, bạn không phải quay lại từ đầu.
Sau đây là một bài thực hành để giải thích sự khác biệt giữa Type layer và Render Type:
Tạo một tài liệu mói 400x400 pixel và gõ chữ "Hello" khoảng 72 points
Nhân đôi layer lên hai lần và bạn sẽ có 3 bản copy của chữ Hello và di chuyển nó ra một chút để bạn có thể nhìn thấy từng copy.
Render một trong các layer vừa được copy.
Free Transform Layer vừa được render và điều chỉnh tỉ lệ để vừa với độ rộng của tài liệu
Free Transform những layer không được render bằng với layer ở bước 4. Chú ý độ nét của những layer được render.
Bây giờ Zoom vào Type Layer và nhìn kỹ vào chỗ cong của chữ. Bạn sẽ nhìn thấy đường viền của nó bao gồm một số màu? đây chính là lý do tại sao ta có tuỳ chọn anti-alias smoothing.
Khi bạn sử dụng Type Mask Tool thay vì Type Layer tool, tuỳ chọn vẫn như nhau, nhưng khi bạn nhấp vào tài liệu, tài liệu sẽ được Fill với một mạng che, tương tự như khi bạn ở trong chế độ Quick Mask. Khi bạn gõ, chữ sẽ vẫn hiện ra bình thường trên mạng che. Khi bạn thiết lập vùng chữ, bạn sẽ thấy một vùng lựa chọn thay vì một layer chữ bình thường. Một khi bạn đã tạo một vùng lựa chọn chữ, nó có tính năng như những vùng lựa chọn bình thường khác.
Khi bạn chọn gõ chữ theo chiều dọc, chữ sẽ được đặt theo chiều từ trên xuống dưới. Những nút căn chỉnh cũng sẽ biến đổi theo chiều dọc. Nếu bạn muốn tạo một hàng chữ dọc hai bên cạnh của một file ảnh bất kỳ, mà không phải là theo chiều dọc, bạn chỉ cần gõ bình thường theo chiều ngang và dụng Free Transform để xoay nó. Hoặc bạn bôi đen dòng chữ vào Character và Paragraph Palette, chọn mũi tên nhỏ ở menu hiện ra và chọn Rotate Character.
2. Thực hành với Type Tool
Tự làm hiệu ứng drop Shadow.
Mở một tài liệu mới và gõ vài chữ khoảng 72 points
Nhân đôi layer
Đổi màu của layer dưới cùng thành màu đen.
Di chuyển layer chữ màu đen sang bên phải vài pixel
Render (Rasterize) layer này.
Đặt tên cho layer này là "Shadow"
Vào Filter > Blur > Gaussian với radius khoảng 2-5 pixel phụ thuộc vào cỡ chữ của bạn
Điều chỉnh mức Opacity của Shadow layer như bạn thích
Nếu phần bóng được đặt trên một nền nhiều màu, thiết lập Blend mode thành Multiple để có kết quả đẹp hơn.
Chú ý: bạn có thể nói rằng tại sao phải mất thời gian thế? khi bạn chỉ cần vào Filter hoặc Layer Style, nhoáy một cái là xong. Nhưng biết thêm một cách chẳng thiệt gì phải không? và thực tập thêm về những gì bạn đã học.
Outlined Type
Mở một tài liệu mới và gõ vài chữ khoảng 72 points, đặt tên là Outline
Giữ phím Ctrl và nhấp chuột vào layer Outline trong Layer Palette để tạo vùng lựa chọn từ vùng chữ.
Tạo một layer mới dưới layer Outline
Cách 1: Dùng stroke: black, 2 pixels, outside.
Cách 2: Select > Modify > Expand > 2 pixels và tô với màu đen.
Bạn có thể dùng Layer Style để thao tác nhanh hơn. Nhưng tôi chỉ nói để bạn biết!
Photoshop 6: Layer > Layer Style > Stroke
3D Text
Mở một tài liệu mới và gõ vài chữ khoảng 72 points, đặt tên là 3D
Nhân đôi layer 3D hai lần. Bạn phải có 3 layer riêng biệt.
Di chuyển layer dưới cùng 2 pixel lên phía trên bên trái và đổi màu layer 3D thành trắng.
Di chuyển layer giữa 2 pixel xuống dưới và lệch sang phải và đổi thành màu đen.
Fill Background layer cùng màu với layer trên cùng.
Nếu bạn muốn bóng được mềm mại hơn, Merge 3 layer với nhau và áp dụng 1-2 pixel Gaussian Blur.
Move the middle layer two pixels down and two pixels right and change the type color to black.
Sử dụng Bevel & Emboss layer style/effect.
Perspective Shadow - Chữ đổ bóng
Mở một tài liệu mới và gõ vài chữ khoảng 72 points, đặt tên là Shadow
Nhân đôi layer Shadow, đặt tên cho nó là Shadow 1
Giữ phím Ctlr-T để bật Free Transform mode.
Giữ phím Ctrl và đặt ở góc phải của vùng bao quanh và kéo sang bên phải để bóp méo nó.
Rasterize Shadow layer và lock layer Transparency.
Chọn Gradient Tool và chọn Black to White.
Nhấp chuột vào chân của chữ Shadow và kéo nó đến điểm cao nhất của layer Shadow 1
Chọn layer Shadow 1 và chuyển sang công cụ Move Tool để di chuyển nó lên 1 pixel.
Motion Text Source: Bá tước Monte Crito Bantayden.com | |
| | | Seichan Jean Kenault de Stupide
Tổng số bài gửi : 317 Age : 30 Đến từ : Làng Sái | Malfoy Manor | Ổ mèo của nhà Slytherin =))=))=)) Registration date : 24/01/2008
| | | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Tutorial for designer | |
| |
| | | | Tutorial for designer | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|